BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Previous slide
Next slide
0 + NĂM
Hình Thành và Phát Triển
0 +
Giáo sư, Bác sĩ
0 +
Bệnh Nhân
0 %
Khách hàng hài lòng

BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG

Ngày 03/7/2000 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định số 67/QĐ-UB về việc đổi tên “Trung tâm y tế dự phòng than Khu vực Nội Địa” thành “Bệnh viện Bắc Thăng Long” Từ đây Bệnh viện đã trực thuộc Sở Y tế Hà Nội và hoạt động theo đúng ngành dọc của mình. Trụ sở đóng tại: Tổ 18, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Bệnh viện Bắc Thăng Long ngày nay với quy mô 420 giường bệnh, 28 khoa, phòng chức năng và 2 bộ phận…

CHUYÊN KHOA NỔI BẬT

ĐỘI NGŨ CHUYÊN GIA

BSCKII. Nguyễn Văn Thành

Phó giám đốc Bệnh viện

ThS. Phùng Văn Dũng

Phó giám đốc Bệnh viện

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Quy định về phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên

Mới đây, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 285-QĐ/TW ngày 22/4/2025 về phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.   Thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã ký ban hành Quy định số 285-QĐ/TW về phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. (Nguồn ảnh: TTXVN) Theo đó, Quy định số 285-QĐ/TW quy định về nguyên tắc, phương pháp, cách thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người có thẩm quyền trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên; áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên và tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy định này cũng nêu rõ 08 giải pháp phòng ngừa vi phạm; 07 giải pháp phát hiện vi phạm và 06 giải pháp ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Cụ thể: 08 giải pháp phòng ngừa vi phạm Trước tiên, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước bảo đảm thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ, khả thi và cơ chế thi hành nghiêm minh; tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; học tập, nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến kịp thời chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công khai, minh bạch thông tin về tổ chức, hoạt động, quy chế làm việc, quy định, quy trình, quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, chất vấn trong Đảng, quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kê khai, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản, thu nhập; quy định, quy trình, hướng dẫn về xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên. Điều động, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, đảng viên theo quy định. Cung cấp thông tin định kỳ hoặc đột xuất cho báo chí, truyền thông về kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng có liên quan trong xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ trong công tác lãnh đạo, quản lý; xây dựng và hoàn thiện các nền tảng ứng dụng trực tuyến trong khai thác dữ liệu phục vụ nhiệm vụ, dịch vụ công. Công khai các kênh thông tin tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, tố giác, phản ánh, kiến nghị về hoạt động công vụ. Hoàn thiện phương pháp đánh giá, chấm điểm năng lực, tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công việc của tổ chức đảng, đảng viên. Kịp thời bảo vệ, biểu dương, khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. 07 biện pháp phát hiện vi phạm Việc phát hiện vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, trong công tác quản lý đảng viên; kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm; thông tin, dữ liệu và hoạt động kiểm soát, kê khai, công khai, xác minh tài sản, thu nhập; báo cáo, kiến nghị của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phân công của tổ chức đảng, đảng viên; thực hiện trách nhiệm nêu gương, tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan chức năng; giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Nội dung chất vấn tại kỳ họp của cấp ủy, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân; ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân qua hoạt động tiếp xúc, đối thoại của cấp ủy, chính quyền. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố giác, kiến nghị của tổ chức, cá nhân; thông tin phản ánh của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác phối hợp, cung cấp, trao đổi thông tin, hồ sơ, tài liệu giữa các cơ quan chức năng. Các nguồn tài liệu, thông tin, hoạt động khác theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 06 biện pháp ngăn chặn vi phạm Quy định số 285-QĐ/TW của Ban Bí thư nêu rõ, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ động theo dõi, dự báo, nắm chắc tình hình; xác minh ngay dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc đề

Bệnh viện Bắc Thăng Long: tặng quà các em nhỏ dịp Tết thiếu nhi

Tặng quà là hoạt động được tổ chức hàng năm tại Bệnh viện Bắc Thăng Long vào dịp Tết thiếu nhi (1/6) dành cho các bé đang khám và điều trị tại Bệnh viện. Chương trình có sự phối hợp của Phòng Công tác xã hội, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Bệnh viện và các nhà tài trợ, nhà hảo tâm trên mọi miền đất nước. Thay mặt Ban giám đốc bệnh viện, ThS.Bác sĩ Phùng Văn Dũng – Phó Giám đốc Bệnh viện gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban lãnh đạo Cty cổ phần sữa Hà Nội, các nhà tài trợ, nhà hảo tâm đã dành nhiều công sức, tâm huyết cùng với Bệnh viện tổ chức các hoạt động thiện nguyện suốt nhiều năm qua. ThS.Bác sĩ Phùng Văn Dũng cho biết: hàng năm vào những dịp như Ngày Quốc tế thiếu nhi, Tết trung thu, dịp cuối năm,…Bệnh viện đều tổ chức các hoạt động tặng quà cho các bé, với mong muốn động viên, chia sẻ, mang đến niềm vui, hạnh phúc giúp các bé chiến thắng bệnh tật, trở về bên gia đình và hoà nhập cộng đồng. Cử nhân Lê Thu Phong – Trưởng phòng CTXH chia sẻ: Hy vọng rằng, thông qua hoạt động các bệnh nhi thực sự có nhiều niềm vui trong Ngày Quốc tế thiếu nhi, từ đó có thêm nghị lực tiếp tục chiến đấu với bệnh tật và chắc chắn trên hành trình nhiều gian khó của các bé sẽ không bao giờ cô đơn vì luôn có y – bác sĩ của bệnh viện, các nhân viên Công tác xã hội và rất nhiều mạnh thường quân luôn sẵn sàng đồng hành mang đến hy vọng, niềm tin yêu cho các bé. Phòng CTXH

Chuyển đổi số trong lĩnh vực BHYT: Tạo thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT

Từ ngày 1/6/2025, BHXH Việt Nam chính thức ngừng cấp thẻ BHYT giấy cho người tham gia BHYT. Thay vào đó, người dân sẽ sử dụng các phương thức điện tử, hiện đại để thay thế thẻ BHYT giấy như ứng dụng VssID – BHXH số, ứng dụng VNeID, hoặc thẻ Căn cước công dân (CCCD) có gắn chíp khi đi khám, chữa bệnh (KCB) BHYT. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm giảm các thủ tục hành chính và thúc đẩy chuyển đổi số trong công tác triển khai chính sách BHYT của Đảng, Nhà nước. Theo đó, nắm bắt xu thế chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, bám sát định hướng, chiến lược chuyển đổi số Quốc gia, cũng như sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước trong kỷ nguyên mới, những năm qua, BHXH Việt Nam đã quyết tâm đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) theo định hướng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; tích hợp, tập trung cấp quốc gia, hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế; với quy trình nghiệp vụ tự động hóa mức độ cao, được vận hành bởi nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao; đáp ứng yêu cầu đảm bảo an sinh xã hội quốc gia, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng toàn diện hơn. Tính đến đầu năm 2025, cả nước có 95,52 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ 94,2% dân số tham gia BHYT. Với số lượng người tham gia đã đạt độ bao phủ toàn dân, có thể thấy công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực BHYT sẽ không chỉ giúp giảm thủ tục hành chính mà còn nâng cao hiệu quả quản lý và tiết kiệm chi phí tổ chức thực hiện KCB BHYT cho các cơ sở KCB BHYT cũng như cho toàn bộ hệ thống BHXH. Ảnh minh họa: Internet Hiện, BHXH Việt Nam đã kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư với CSDL quốc gia về bảo hiểm, xác thực hơn 100,2 triệu thông tin công dân trong CSDL do BHXH Việt Nam quản lý, trong đó có khoảng 90,9 triệu người đang tham gia, thụ hưởng BHXH, BHYT, BHTN, chiếm 99,2% tổng số người tham gia (không bao gồm lực lượng vũ trang, thân nhân quân đội) với CSDL quốc gia về dân cư. Theo đó, 100% cơ sở KCB BHYT đã triển khai KCB BHYT bằng CCCD gắn chíp với trên 214 triệu lượt tra cứu thành công thông tin thẻ BHYT bằng số định danh cá nhân/CCCD phục vụ làm thủ tục KCB BHYT. Phương thức này đã giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục KCB BHYT xuống còn 6-15 giây. Bên cạnh đó, việc kết hợp sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID – BHXH số và ứng dụng VNeID sẽ giúp người dân dễ dàng tra cứu thông tin về thẻ BHYT và không phải mang theo thẻ BHYT giấy, giúp giảm thiểu các thủ tục giấy tờ khi đi KCB BHYT. BHXH Việt Nam cũng đang chủ động phối hợp Bộ Y tế, Bộ Công an và một số cơ quan liên quan thí điểm liên thông dữ liệu KCB BHYT, phục vụ triển khai Sổ Sức khỏe điện tử, giấy chuyển tuyến, giấy hẹn khám lại tích hợp trên ứng dụng VNeID. Cụ thể, về công tác phối hợp triển khai Sổ sức khỏe điện tử, toàn quốc đã có 314.155.645 lượt gửi dữ liệu từ các cơ sở KCB BHYT lên Hệ thống của BHXH Việt Nam. Trong đó, đã có 152.128.607 lượt tra cứu thành công của hồ sơ khám sức khỏe, giấy chuyển tuyến, giấy hẹn khám lại được liên thông sang CSDL quốc gia về dân cư phục vụ tích hợp lên ứng dụng VNeID. Bên cạnh đó, toàn quốc có: 1.363 cơ sở KCB đã gửi dữ liệu giấy khám sức khỏe lái xe với 6.255.215 dữ liệu được gửi; 1.951 cơ sở KCB gửi dữ liệu giấy chứng sinh với 2.361.179 dữ liệu được gửi; 796 cơ sở KCB gửi dữ liệu giấy báo tử với 31.024 dữ liệu được gửi. Với những tiền đề này, thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, từ ngày 1/6/2025, người dân sẽ dùng hình ảnh thẻ BHYT điện tử thay cho thẻ BHYT giấy khi đi KCB. Hình ảnh thẻ BHYT điện tử có tính an toàn cao khi sử dụng công nghệ sinh trắc học để xác thực nhân thân của người có thẻ. Điều này giúp hạn chế được tình trạng lạm dụng, trục lợi từ việc sử dụng thẻ BHYT của người khác. Ngoài ra, hình ảnh thẻ BHYT điện tử cũng được mã hóa và bảo vệ theo các tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định của pháp luật. Việc triển khai các quy định mới trong lĩnh vực BHYT không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi người dân mà còn giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống y tế, tạo thuận lợi cho việc KCB BHYT, đồng thời đẩy mạnh tiến trình chuyển đổi số trong công tác an sinh xã hội của hệ thống BHXH nói riêng và của Nhà nước nói chung. Bên cạnh đó, cơ quan BHXH tiếp tục chủ động phối hợp với các cơ sở KCB đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID – BHXH số, ứng dụng VNeID và CCCD gắn chíp khi đi KCB BHYT, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng những tiện ích mà chuyển đổi số đem lại, từng bước hướng tới thực hiện mục tiêu công dân số, giúp người tham gia BHYT được thuận lợi và đảm bảo tối đa quyền lợi KCB BHYT./. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-y-te.aspx?ItemID=24852&CateID=169

Các triệu chứng phổ biến của biến thể Covid-19 mới

Biến thể XEC lan nhanh gấp 7 lần cúm, gây ra 5 triệu chứng phổ biến gồm ho, sốt, mệt mỏi, đau họng và mất vị giác hoặc khứu giác. Biến thể XEC, dòng phụ mới của Omicron, đang lan rộng nhanh chóng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là Thái Lan. Bên cạnh khả năng truyền nhiễm được cảnh báo nhanh gấp 7 lần cúm, biến thể này cũng gây ra một loạt triệu chứng dễ bị bỏ qua. Các chuyên gia đã chỉ ra 5 triệu chứng phổ biến nhất của biến thể XEC, dựa trên dữ liệu lâm sàng và đánh giá của chuyên gia quốc tế. Ho – dấu hiệu đầu tiên dễ nhận biết Ho là một trong những biểu hiện sớm và phổ biến nhất của XEC. Bệnh nhân thường bị ho khan, dai dẳng và khó kiểm soát, đi kèm cảm giác ngứa rát họng. Theo Assure Covid-19 Lab, Mỹ, hơn 70% ca nhiễm gần đây ghi nhận triệu chứng ho. “Ho do biến chủng XEC có thể kéo dài nhiều ngày, kể cả sau khi các triệu chứng chính khác đã biến mất”, tiến sĩ William Schaffner, chuyên gia bệnh truyền nhiễm tại Đại học Vanderbilt, cho biết. Ông khuyến cáo những người có biểu hiện ho nên tự cách ly và theo dõi tình trạng hô hấp vì đây là triệu chứng có nguy cơ lan truyền cao. Sốt và ớn lạnh – phản ứng của cơ thể với virus Dù không phải bệnh nhân nào cũng bị sốt, đây vẫn là một trong những triệu chứng phổ biến ở những người nhiễm XEC. Sốt thường nhẹ đến trung bình (37,5-38,5 độ C), kèm theo cảm giác ớn lạnh, đau nhức cơ thể. Theo báo cáo của Mayo Clinic, triệu chứng sốt thể hiện phản ứng miễn dịch tự nhiên của cơ thể chống lại sự nhân lên của virus. Bác sĩ Allison Arwady, chuyên gia y tế cộng đồng tại Chicago, cho biết với biến thể XEC, sốt thường không kéo dài quá 2 đến 3 ngày. Tuy nhiên, nếu người bệnh có sẵn bệnh nền, triệu chứng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn.                                                 Y tá tiêm vaccine Covid-19 cho bé gái ở thành phố Bandung, tỉnh Tây Java, Indonesia. Ảnh: AFP Mệt mỏi kèm giảm tập trung Một đặc điểm đáng chú ý ở bệnh nhân nhiễm XEC là cảm giác mệt mỏi kéo dài, kể cả khi các triệu chứng khác đã giảm. Theo Johns Hopkins Medicine, hơn 40% người nhiễm Covid-19 có thể tiếp tục cảm thấy kiệt sức nhiều ngày đến vài tuần sau khi khỏi bệnh. Với biến thể XEC, mệt mỏi còn đi kèm giảm khả năng tập trung và mất ngủ nhẹ. “Mệt mỏi không chỉ là triệu chứng cấp tính mà còn là biểu hiện cho thấy virus ảnh hưởng tới hệ thần kinh trung ương”, tiến sĩ Emily Landon, chuyên gia bệnh truyền nhiễm tại Đại học Chicago, cảnh báo. Đau họng ngay từ ngày đầu nhiễm bệnh Đau họng là một trong những biểu hiện dễ bị bỏ qua, nhất là trong mùa cúm. Tuy nhiên, với XEC, tình trạng đau rát họng xuất hiện ở nhiều bệnh nhân ngay từ ngày đầu tiên nhiễm virus. Theo CDC Mỹ, đau họng liên quan đến Covid-19 thường có xu hướng đột ngột và đi kèm cảm giác khô, rát khi nuốt. “Bệnh nhân XEC thường không bị nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi rõ rệt như cúm, vì vậy đau họng nên được coi là dấu hiệu cảnh báo”, tiến sĩ Jorge Moreno từ Đại học Yale nhận định. Mất vị giác hoặc khứu giác vẫn là dấu hiệu đặc trưng Dù xuất hiện phổ biến hơn ở các biến thể trước, mất vị giác hoặc khứu giác vẫn được ghi nhận ở nhiều ca nhiễm XEC. Tình trạng này thường xảy ra sau vài ngày nhiễm bệnh, và có thể kéo dài hàng tuần. Theo nghiên cứu được công bố trên Journal of the American Medical Association, việc mất khứu giác có liên quan đến mức độ viêm nhiễm ở vùng mũi, họng. Mất khứu giác, dù ít gặp hơn so với giai đoạn đầu đại dịch, vẫn được coi là chỉ dấu đặc trưng giúp phân biệt Covid-19 với các bệnh đường hô hấp khác, theo nhận định của tiến sĩ Claire Hopkins, chuyên gia tai mũi họng tại Anh. https://vnexpress.net/cac-trieu-chung-pho-bien-cua-bien-the-covid-19-moi-4888734.html

HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU

Kỳ tích: ca ghép gan đặc biệt cho bệnh nhi 8 tháng tuổi, nặng chỉ 6,5kg từ người hiến chết não

Ngày 18/4 trở thành một dấu mốc đáng nhớ với Hệ thống Y tế Vinmec và ngành phẫu thuật ở Việt Nam khi nơi này thực hiện thành công ca ghép gan đặc biệt cho một bệnh nhi 8 tháng tuổi, nặng chỉ 6,5kg. Không chỉ là ca ghép gan ở bệnh nhi nhẹ cân nhất từng thực hiện tại Vinmec, đây còn là một trong những ca ghép gan nhỏ tuổi và nhẹ cân hiếm hoi tại Việt Nam, mang lại hy vọng sống cho nhiều bệnh nhi mắc bệnh gan hiểm nghèo. Bé N.L.T chào đời khỏe mạnh nhưng chỉ sau vài ngày, trên cơ thể nhỏ bé ấy đã xuất hiện những dấu hiệu bất thường. Mẹ của bé kể, khi con mới 10 ngày tuổi, chị phát hiện trên da có những chấm xuất huyết nhỏ, đưa đi khám thì phát hiện men gan cao. Lúc ấy, bác sĩ khuyên về nhà theo dõi thêm. Nhưng khi về nhà, da con càng lúc càng vàng, mắt cũng vàng, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu, bụng trướng to bất thường. Những ngày sau, mẹ bé chạy khắp các bệnh viện lớn, từ Bệnh viện Đại học Y, Bệnh viện Nhi Trung ương… rồi nhận về một chẩn đoán lạnh người: bệnh nhi teo mật bẩm sinh. “Lúc ấy, em chưa hiểu rõ, chỉ nghĩ bệnh tim bẩm sinh còn chữa được thì bệnh này chắc cũng không quá nghiêm trọng. Nhưng đến khi vào viện, nhìn những đứa trẻ bụng trướng căng, da vàng sậm, em mới biết bệnh của con mình nặng thế nào”, chị kể. Phát hiện con mình bị căn bệnh hiếm, rất nguy hiểm và vô cùng khó chữa nhưng người mẹ cắn răng âm thầm không nói với bất cứ ai. “Mọi người hỏi han về tình hình bệnh tật của con, nhưng em vẫn giấu cho đến khi con mổ thì mọi người mới biết. Vào thăm con, thấy các bạn ở cùng khoa với những triệu chứng rất nặng thì mọi người mới biết bệnh này nguy hiểm. Lúc đó cứ ai hỏi em về tình hình bệnh của con là em càng khóc”, người mẹ nghẹn ngào nhớ lại. Bé T. nhanh chóng được chỉ định phẫu thuật Kasai – một phương pháp nối đường mật ngoài gan với ruột – khi mới 1,5 tháng tuổi. Thế nhưng, hy vọng mong manh ấy nhanh chóng tắt lịm. Bệnh tình không thuyên giảm, da vẫn vàng, gan vẫn to, bụng trướng, bé quấy khóc triền miên, lách to gây chèn ép cơ hoành, khiến bé thở khó nhọc. Gia đình liên tục đi khám, trung bình 1-2 tuần/lần, bệnh viện dần trở thành ngôi nhà thứ hai của hai mẹ con. Đỉnh điểm của tuyệt vọng là khi các xét nghiệm từ bố, mẹ, ông, bà đều không phù hợp để hiến gan. Người mẹ trẻ gần như sụp đổ, có lúc từng nghĩ “hai mẹ con cùng đi đến nơi thật xa, giải thoát cho nhau để con không phải chịu đau đớn nữa”. Nhưng giữa lúc mọi cánh cửa dần khép lại, tin vui bất ngờ đến: Có một phần lá gan phù hợp từ bệnh nhân chết não tại Bệnh viện Bạch Mai có cùng nhóm máu với bé T. Một tia hy vọng lóe sáng, sự sống sẽ được chuyển giao. Ngay lập tức, hệ thống “Báo động đỏ” của Vinmec được kích hoạt. Hội đồng Chuyên môn Ghép gan khẩn cấp triệu tập, bao gồm các chuyên khoa Ngoại khoa Gan – Mật, Gây mê, Hồi sức cấp cứu, Nhi khoa, Chẩn đoán hình ảnh, Xét nghiệm, Dược…, dưới sự chủ trì của Thầy thuốc Nhân dân, PGS.TS.BS Phạm Đức Huấn – Giám đốc Trung tâm Tiêu hóa – Gan mật – Tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Hội đồng Chuyên môn Ghép gan đã hội chẩn và đi đến kết luận bệnh nhi bị xơ gan giai đoạn cuối do teo đường mật bẩm sinh. Họ thống nhất: Ghép gan là phương pháp duy nhất cứu sống bé. Tuy nhiên, bệnh nhi chỉ nặng 6,5kg và tiền sử bệnh trong thời gian dài của cháu bé đặt ra những thách thức lớn về gây mê – hồi sức và đặc biệt là kỹ thuật ghép. Tất cả đã được đội ngũ y bác sĩ Vinmec thảo luận rất chi tiết và đưa ra các phương án để đảm bảo an toàn cho bệnh nhi. Ca mổ được thực hiện chỉ sau 4 giờ chuẩn bị – một khoảng thời gian kỷ lục. Nhớ lại ca phẫu thuật, PGS.TS.BS Lê Văn Thành, người đóng vai trò tổng chỉ huy cuộc ghép, kể: “Ca phẫu thuật kéo dài hơn 10 tiếng, từng bước tiến hành và phối hợp chính xác đến từng phút. Chúng tôi làm việc với áp lực cao nhất, vì hiểu rằng từng giây, từng phút trôi qua là sự sống của bệnh nhi bị đe dọa”. Với thể trạng chỉ 6,5kg, các mạch máu trong cơ thể bé chỉ 3-4mm, nhỏ bằng khoảng một phần ba so với người trưởng thành. Không chỉ có vậy, bé còn gặp hai bất thường mạch máu nghiêm trọng: Teo tĩnh mạch cửa, teo tĩnh mạch chủ dưới đoạn sau gan – những thách thức cực lớn đòi hỏi phải tạo hình lại toàn bộ hệ thống mạch máu. “Đây là ca ghép khó nhất mà chúng tôi từng thực hiện, vì bệnh nhi nhỏ tuổi, nhẹ cân, có nhiều bất thường giải phẫu, đồng thời phải khắc phục tình trạng rối loạn đông máu. Bất cứ sai sót nhỏ nào cũng có thể dẫn tới thảm họa”, TS.BS Đào Đức Dũng- một trong những phẫu thuật viên chính của kíp mổ- chia sẻ. Ngay sau khi kết thúc ca mổ, thuốc mê vừa ngừng, tiếng khóc của cháu bé vang lên từ phòng mổ. Đó không chỉ là tiếng khóc của một em bé, mà là tiếng reo vui của cả ekip y bác

Top 7 căn bệnh xương khớp phổ biến ở người Việt Nam

Bệnh tan máu bẩm sinh hiện đang ngày càng phổ biến nên rất nhiều người đã và đang có nhu cầu tầm soát bệnh tan máu bẩm sinh tiền hôn nhân để thế hệ sau được khỏe mạnh. BỆNH VIỆN ĐA KHOA HÀ NỘI sẽ cung cấp cho các bạn một vài thông tin hữu ích liên quan đến vấn đề này. TAN MÁU BẨM SINH LÀ GÌ? Tan máu bẩm sinh (Thalassemia) là một nhóm bệnh rối loạn máu di truyền có thể di truyền từ cha mẹ sang con cái và ảnh hưởng đến số lượng và loại hemoglobin mà cơ thể sản xuất. Khi mắc bệnh, hemoglobin của bệnh nhân được phát hiện có cấu trúc bất thường, hậu quả là hồng cầu bị phá hủy, quá trình vận chuyển oxy gặp nhiều gián đoạn. Đó là nguyên nhân khiến người mắc hội chứng tan máu phải đối mặt với tình trạng thiếu máu cực kỳ nghiêm trọng. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH DI TRUYỀN NHƯ THẾ NÀO? Đây là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy tỷ lệ nam và nữ bị bệnh như nhau. Khi cả vợ và chồng cùng mang gen bệnh thalassemia thì mỗi lần sinh có 25% nguy cơ con bị bệnh, 50% khả năng con mang một gen bệnh và 25% khả năng con bình thường. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách.  

Ca ghép phổi siêu khó lần đầu tiên Việt Nam làm được: Nhật Bản đưa tin, y khoa toàn cầu đánh giá cao

8 năm trước, ghép phổi được đánh giá là một kỹ thuật khó, chỉ một số quốc gia trên thế giới làm được. Tuy nhiên, thời điểm đó, Việt Nam đã phẫu thuật thành công cho một bệnh nhi. 2 người cùng hiến 1 phần lá phổi để bé 7 tuổi có cả 2 lá phổi Theo các chuyên gia, để thực hiện ghép phổi, các bác sĩ phải lựa chọn đánh giá tình trạng phổi của người cho, người nhận rất chặt chẽ. Sau ghép, việc chăm sóc để phổi ghép đủ khỏe, đủ chức năng cũng rất khó, bởi ngay khi được cắt ra, phổi sẽ bị tổn thương nên nguy cơ nhiễm trùng cũng cao hơn các tạng khác. “Ghép phổi là kỹ thuật ghép tạng khó nhất”, bác sĩ Trần Bình Giang, nguyên Giám đốc Bệnh viện Việt Đức đã từng chia sẻ. Cách đây 8 năm, ghép phổi là một kỹ thuật khó không chỉ với Việt Nam mà trên thế giới. Tuy nhiên, Bệnh viện Quân y 103 đã quyết tâm thực hiện ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam. Ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh nhân của ca ghép là cháu Ly Chương Bình (7 tuổi, quê ở xã Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang). Bình được chẩn đoán giãn phế quản bẩm sinh lan tỏa 2 phổi, đã biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn, suy dinh dưỡng độ III, có chỉ định tuyệt đối để ghép phổi. Nếu không được phẫu thuật ghép phổi thì Bình có tiên lượng tử vong cao. Hai người tình nguyện hiến 1 phần lá phổi cho Bình là bố em (28 tuổi) và bác ruột (30 tuổi) để tạo thành 2 lá phổi cho em. Ngày 21/2/2017, các bác sĩ của bệnh viện Quân y 103 đã phối hợp với một số bệnh viện và chuyên gia Nhật Bản và thực hiện thành công ca ghép phổi cho Bình. Trong ca ghép, Bình được cắt bỏ bộ 2 lá phổi bệnh, sau đó ghép 1 thùy phổi từ bố và 1 thùy từ bác ruột. Ca phẫu thuật kéo dài khoảng 11 giờ và được đánh giá là thành công. Sau 2 ngày ghép phổi, Bình đã được rút ống nội khí quản và tự thở được. Bình tỉnh táo, nói chuyện được, các chỉ số sinh học ổn định. Ca ghép phổi với nhiều khó khăn Ca ghép phổi từ người hiến còn sống đầu tiên tại Việt Nam đã thu hút sự chú ý của báo chí quốc tế và được đánh giá cao trong cộng đồng y khoa toàn cầu. Ca ghép này được đánh giá khó vì người cho là 2 người khác nhau (bố và bác của bệnh nhân) trong khi các ca ghép khác chỉ cần một người. Do đó, áp lực từ những người làm chuyên môn là rất lớn. Một khó khăn khác nữa là thể trạng của Bình rất yếu, do mắc bệnh từ nhỏ nên các cơ quan như tim của em cũng bị ảnh hưởng. Bình bị suy dinh dưỡng, 7 tuổi mà chỉ có 14kg. Ngoài ra, một khó khăn khác là nguy cơ nhiễm khuẩn phổi cao. Do phổi là cơ quan hô hấp cung cấp oxy cho cơ thể, hít thở với không khí bên ngoài nên nguy cơ nhiễm khuẩn rất cao. Nếu công tác khử khuẩn phòng mổ, công tác hậu phẫu không đảm bảo vô trùng thì phẫu thuật sẽ có nguy cơ thất bại. Trước khi thực hiện ca ghép phổi này, bệnh viện quân y đã cử các bác sĩ sang Nhật học kinh nghiệm ghép phổi, từ khâu gây mê, phẫu thuật tới chạy máy để đảm bảo ca ghép thành công. Bệnh nhi được lãnh đạo Bộ Y tế thời điểm đó tới thăm hỏi. Trường Đại học Okayama, Nhật Bản đã cử một đội ngũ chuyên gia đến hỗ trợ ca phẫu thuật và công bố thông tin về sự thành công của ca ghép này trên trang tin chính thức của họ. Một số báo chí quốc tế cũng đã đưa thông tin về thành công của ca ghép phổi từ người hiến còn sống đầu tiên tại Việt Nam. Điều này không chỉ phản ánh tầm quan trọng của sự kiện mà còn ghi nhận bước tiến đáng kể của y học Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây, ghép phổi chỉ có thể thực hiện ở các quốc gia có nền y học tiên tiến như Mỹ, Đức, Tây Ban Nha, Áo, Vương Quốc Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thành công của ca ghép này đã đưa Việt Nam vào danh sách các nước có khả năng thực hiện kỹ thuật khó này. Thành công của ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại việt Nam không chỉ mở ra cơ hội sống cho bệnh nhân mà còn khẳng định Việt Nam có thể làm chủ những kỹ thuật ghép tạng phức tạp. PGS.TS Nguyễn Mạnh An, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân Y 103 chia sẻ: “Thành công của ca ghép phổi này không chỉ là thành tựu của bệnh viện mà còn là của nền y tế Việt Nam. Những tạng lớn của con người Việt Nam đều có thể ghép được và người bệnh có cơ hội ghép tạng ngay ở trong nước, gia thành rẻ hơn rất nhiều”. Tại thời điểm đó, khi đánh giá về ca ghép tạng này, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định: “Ca ghép phổi đầu tiên từ người cho sống thành công, Việt Nam đã ghi tên trên bản đồ thế giới trong kỹ thuật ghép phổi, đưa chuyên ngành ghép tạng của Việt Nam lên một tầm cao mới. Đây là thành tích lớn lao chào mừng 62 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2”. Đến nay, Việt Nam đã làm

1 phương pháp mổ của giáo sư Việt Nam từng bị công kích vì quá mới, sau đó khiến cả thế giới thán phục

Trước khi được thế giới công nhận, phương pháp mổ gan độc đáo này của giáo sư Tôn Thất Tùng đã từng bị từ chối, chỉ trích vì quá mới. Cú “sốc” đầu đời với sự công kích dữ dội GS.BS Tôn Thất Tùng (1912-1982) là một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới trong lĩnh vực gan và phẫu thuật gan. Ông là cha đẻ của “Phương pháp cắt gan khô” hay còn gọi là “Phương pháp Tôn Thất Tùng”. Tuy nhiên hành trình để cả thế giới ghi nhận “Phương pháp cắt gan khô” lại không hề đơn giản. Trong thời gian học tại trường Đại học Y Hà Nội, chàng sinh viên Tôn Thất Tùng nhanh chóng nhận ra kiến thức của các thầy giáo người Pháp chỉ chú trọng sách vở, rất ít liên hệ tới thực tế khí hậu, con người bản xứ. Vì vậy, ông quyết định học tập và nghiên cứu, tìm hướng đi riêng cho mình. Chiều mùa đông năm 1935 tại Viện mổ xác, chàng sinh viên 23 tuổi Tôn Thất Tùng đã phát hiện một hiện tượng rất “lạ” khi thấy hàng chục con giun đã chui vào các ống mật trong gan. Ông đã tỷ mỉ vẽ lại sơ đồ gan, các ống mật trong gan và đối chiếu để tìm ra những nét trùng hợp. Nhờ đường đi của những con giun ông đã phẫu tích và tìm được đường đi của những ống mật, mạch máu trong gan. Một việc mà trước đó trên thế giới chưa ai làm được. Đây là một phát hiện mới trong nghiên cứu gan. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã vẽ các mạch máu trong gan. Với phát hiện đó, trong bốn năm tiếp theo (1935 -1939), giáo sư Tôn Thất Tùng đã phẫu tích hơn 200 lá gan người chết, từ đó hoàn thiện luận án tốt nghiệp bác sỹ y khoa với nhan đề “Cách phân chia mạch máu của gan”. “Tôi đã có một kỹ thuật phẫu tích đặc biệt bằng nạo gan: chỉ trong 15 phút, tôi có thể phơi trần tất cả các mạch máu trong gan và nhờ cách làm việc như vậy sau này tôi có thể cắt gan, không kể bộ phận nào của nó, chỉ trong chưa đầy 10 phút”, giáo sư Tôn Thất Tùng viết. Bản luận án và khám phá của chàng sinh viên Tôn Thất Tùng đã được tặng hai Huy chương Bạc của Liên hiệp Pháp và Đại học Y Paris. Năm 1939, sau khi trở thành bác sĩ nội trú tại Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức) giáo sư Tôn Thất Tùng đã thực hiện thành công cắt gan có kế hoạch: bằng cách thắt các mạch máu trong gan trước khi cắt cho một bệnh nhân. Sau ca phẫu thuật, bệnh nhân hồi phục và trở lại được với cuộc sống. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã gửi báo cáo về phương pháp cắt gan tới Viện Hàn lâm phẫu thuật Paris. Tuy nhiên, thành công của ông do quá mới mẻ nên đã bị từ chối và bị công kích dữ dội. Với tư duy nghiên cứu khoa học, giáo sư Tôn Thất Tùng không hề bỏ cuộc. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra nên công trình nghiên cứu về gan của ông bị ngắt quãng. Tiếp tục đối mặt với công kích rồi khiến cả thế giới phải kinh ngạc Khi kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, tháng 10/1954, giáo sư Tùng quay trở lại Hà Nội. Ông được cử làm giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn và chủ nhiệm bộ môn ngoại Đại học Y Hà Nội. Thời điểm này ông đã quay lại với đam mê nghiên cứu về phương pháp mổ gan. Giáo sư Đặng Hanh Đệ học trò của giáo sư Tôn Thất Tùng chia sẻ: “Thầy Tùng chỉ mổ vào 3 buổi sáng thứ Hai, Tư, Sáu hàng tuần trong những năm 1960, những ngày còn lại thầy thường xuống phòng đại thể mổ xác – nơi làm các tiêu bản giải phẫu bệnh và lưu trữ những bệnh phẩm quý hiếm. Bác sĩ Bằng (chủ nhiệm khoa) đã chuẩn bị sẵn các gan được ngâm formol để phẫu tích. Thầy thích dùng nạo (curette) để nạo bỏ nhu mô gan từ cuống, các thành phần khác (mạch máu, đường mật) dai hơn nên còn trơ lại sau khi nạo. Cách làm này sẽ cho hình ảnh trong không gian ba chiều về quan hệ, vị trí của mạch máu (chủ yếu là tĩnh mạch cửa) và đường mật, vừa nạo vừa học thuộc… Cả trăm cái gan được phẫu tích như vậy nên thầy thuộc lòng sự phân chia của mạch máu trong gan, quan hệ của các mạch máu so với bề mặt gan”. Giáo sư Tùng mổ gan. Ngày 7/1/1961, giáo sư Tôn Thất Tùng cắt thuỳ gan phải của một bệnh nhân ung thư chỉ vẻn vẹn trong 10 phút. Nếu theo phương pháp cắt gan của giáo sư người Pháp Lortat-Jacob, được giới thiệu năm 1952, thì phải mất 5-6 tiếng. Sau khi được đăng tải trên tờ “The Lancet” ở London, công trình của Giáo sư Tôn Thất Tùng đã làm chấn động dư luận. Tuy nhiên, lần công bố này giáo sư Tôn Thất Tùng tiếp tục bị công kích và còn bị công kích mạnh mẽ hơn lần trước là năm 1939. Giáo sư Đặng Hanh Đệ chia sẻ: “Chính lúc đó thầy đã làm để cho số liệu thuyết phục. Để người chưa làm cũng phải tin cách này là cách tốt nhất”. Trong vòng 1 năm giáo sư Tôn Thất Tùng đã cắt gan thành công cho 50 trường hợp, vượt kỷ lục của Lortat-Jacob gấp 10 lần. Tuy nhiên, thời gian này phương pháp cắt gan của ông vẫn chưa được công nhận. Năm 1964, nhân dịp

Tư vấn sức khoẻ

Hút mỡ – phẫu thuật làm đẹp dễ tai biến chết người

Hút mỡ là phẫu thuật nguy hiểm nhất trong các loại hình mổ thẩm mỹ, có thể gây sốc thuốc, sốc phản vệ, thuyên tắc mỡ dẫn đến tử vong nếu không xử trí kịp thời. “Loại hình phẫu thuật này thường phải gây mê, thực hiện trên người béo, chủ yếu là người tương đối lớn tuổi với nhiều bệnh nền, chứa đựng nhiều rủi ro biến chứng”, PGS.TS.BS Lê Hành, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ Việt Nam, nói bên lề họp báo khởi động Hội nghị khoa học thẩm mỹ và triển lãm ASLS 2025, tổ chức gần đây. Theo phó giáo sư Hành, bất cứ cuộc gây mê nào cũng một vấn đề lớn với nhiều nguy cơ. Gây mê sai chỉ định hoặc quá liều, có thể dẫn đến ngộ độc, sốc thuốc khiến bệnh nhân rối loạn nhịp tim, suy hô hấp rồi ngưng tim, ngưng thở, tử vong. Mỹ ghi nhận tỷ lệ tử vong bệnh nhân hút mỡ bụng là 1/20.000 ca, còn Việt Nam chưa có thống kê cụ thể. Ngoài ra, bệnh nhân còn đối mặt với nguy cơ biến chứng sau hút mỡ do thuyên tắc mỡ. Điều này xảy ra thường do quy trình hút mỡ diễn ra kéo dài, mạch máu tổn thương, các vi mạch giãn ra. Các tế bào mỡ khi bị hút ngược vào lòng mạch, đi khắp cơ thể, nếu lên não gây đột quỵ, vào tim gây trụy tim, vào phổi gây phù. Năm ngoái, người phụ nữ 31 tuổi đột quỵ nhồi máu não do thuyên tắc mỡ sau hút mỡ bụng, cấy mỡ vùng trán và thái dương tại một thẩm mỹ viện ở TP HCM. Tử vong do hút mỡ cũng có thể xảy ra khi người thực hiện phẫu thuật không được đào tạo chuyên khoa, không có chứng chỉ hành nghề, không có kinh nghiệm phẫu thuật. Cơ sở thẩm mỹ nếu kém uy tín, không đủ trang thiết bị cấp cứu, thiếu nhân sự để theo dõi sát sao trong và sau mổ cũng dễ dẫn đến nguy hiểm cho bệnh nhân. PGS.TS.BS Lê Hành tại họp báo ngày 2/6. Ảnh: Minh Phương Lãnh đạo Hội Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ Việt Nam cho rằng điều nguy hiểm nhất hiện nay là bệnh nhân hút mỡ thường làm kèm nhiều thứ như đặt túi ngực, cấy mỡ…, còn gọi là “combo”. Điều này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ, bởi riêng việc hút mỡ đã là phẫu thuật lớn, đòi hỏi phải có quy trình nghiêm ngặt. Thực tế thời gian qua, TP HCM ghi nhận nhiều trường hợp tử vong trong lúc hút mỡ kết hợp nhiều loại hình khác. Tuần trước, người phụ nữ 32 tuổi bất ngờ ngưng tim rồi tử vong sau mổ nâng ngực và hút mỡ bắp tay tại Bệnh viện Răng hàm mặt Thẩm mỹ Paris, đang được cơ quan chức năng điều tra làm rõ nguyên nhân. Hồi tháng 5/2024, người phụ nữ 64 tuổi hôn mê sau hai ngày hút mỡ, cắt da thừa mí mắt, thay túi độn ngực tại Bệnh viện Tân Hưng, được cứu chữa hơn một tháng nhưng không qua khỏi. Trước đó, cô gái 31 tuổi đến một cơ sở thẩm mỹ học việc, được bà chủ nâng mũi, hút mỡ bụng, vài giờ sau thì tím tái, khó thở, tử vong khi vào viện cấp cứu. Đầu năm nay, Sở Y tế TP HCM đã ban hành “Quy trình chăm sóc toàn diện người bệnh thực hiện phẫu thuật hút mỡ tạo hình bụng”, với quy trình kỹ thuật chi tiết do chuyên gia thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau phối hợp xây dựng, theo từng giai đoạn mà người bệnh phải trải qua khi được chỉ định và phẫu thuật hút mỡ. Mỗi bước đều chỉ rõ những việc cần phải làm, do ai làm, cách làm như thế nào, dự báo những tình huống có thể xảy ra, cách giải quyết. “Trong khuyến cáo này, chúng tôi yêu cầu không hút mỡ theo hình thức ‘combo’, nhưng không ít nơi vẫn làm bất chấp với giải thích là thực hiện vì nhu cầu bệnh nhân muốn làm nhanh nhiều thứ cùng lúc”, bác sĩ nói. Bác sĩ trong phòng mổ tại bệnh viện ở TP HCM. Ảnh: Quỳnh Trần Theo ông Hành, một trong những tiêu chuẩn trong mổ hút mỡ là bệnh nhân an toàn, nghĩa là cần biết rõ bệnh nhân có bệnh lý gì hay không để có giải pháp phù hợp. Chẳng hạn, nếu người bệnh có đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch…, phải điều trị đưa các chỉ số về mức phù hợp, đủ điều kiện phẫu thuật mới thực hiện. Việc chỉ định gây mê, gây tê cần được cân nhắc kỹ lưỡng với từng trường hợp. Bác sĩ khuyến cáo người muốn phẫu thuật hút mỡ nên chọn bệnh viện được cấp phép hoạt động, bác sĩ có chứng chỉ hành nghề với phạm vi hoạt động chuyên môn dành cho loại hình này. Quá trình hút mỡ bụng phải được thực hiện ở bệnh viện có phòng mổ đạt chuẩn, có bác sĩ gây mê theo dõi và hỗ trợ, kiểm soát. Khách hàng trước khi hút mỡ bụng phải được kiểm tra sức khỏe tổng thể, xét nghiệm đầy đủ. Tuyệt đối không được thực hiện ở cơ sở thẩm mỹ viện. https://vnexpress.net/hut-mo-phau-thuat-lam-dep-de-tai-bien-chet-nguoi-4893664.html

Lợi ích sức khỏe bất ngờ khi ăn dưa chuột hằng ngày

Dưa chuột (hay dưa leo) là loại quả phổ biến, chúng có nhiều công dụng như hỗ trợ giảm cân, tốt cho sức khỏe tim mạch và làm dịu các cơn đau nhức và sưng tấy. Dưới đây là một số lợi ích sức khỏe tốt nhất của việc ăn dưa chuột hằng ngày: Giữ nước cho cơ thể Dưa chuột chứa tới 96% hàm lượng nước, có thể giữ cho cơ thể của bạn đủ nước và đáp ứng nhu cầu hằng ngày. Bổ sung đủ nước thông qua trái cây và rau quả đảm bảo rằng các tế bào nhận được dinh dưỡng thích hợp. Từ đó, giúp bạn chống lại sự kiệt sức và tràn đầy năng lượng cho cả ngày. Do đó, dưa chuột cũng là một lựa chọn ăn vặt tốt. Hỗ trợ giảm cân Dưa chuột là một trong những lựa chọn hỗ trợ giảm cân tốt nhất và dễ dàng nhất có sẵn một cách tự nhiên. Trên thực tế, nhiều chuyên gia coi đây là loại trái cây cần phải có khi đang trong thời gian giảm cân. Dưa chuột không chỉ dễ ăn và nhẹ bụng mà còn chứa nhiều chất xơ và hàm lượng nước, đồng thời là một lựa chọn thực phẩm ít calo tuyệt vời. Giảm đau nhức và đau khớp Nếu bạn thường xuyên bị đau nhức xương khớp và đau nhức cơ bắp, hãy đảm bảo rằng chế độ ăn có nhiều dưa chuột và các loại salad xanh khác. Dưa chuột không chỉ tốt cho sức khỏe làn da mà còn thúc đẩy xương và cơ bắp khỏe mạnh hơn. Chúng cũng hoạt động như một chất chữa bệnh tốt trong các trường hợp đau nhức. Đó là một trong những loại thực phẩm tốt nhất để đưa vào chế độ ăn uống khi bạn bắt đầu lão hóa. Tốt cho nướu răng Dưa chuột có thể giúp điều chỉnh cân bằng axít trong miệng, duy trì cân bằng độ pH, cuối cùng giúp cơ thể ngăn ngừa và chữa lành các vết cắt và vết thương nhỏ trong thời gian ngắn hơn. Thường xuyên ăn dưa chuột cũng có thể giúp giảm nguy cơ phát triển các bệnh về nướu và bệnh răng miệng. Một số người cho rằng ăn trái cây và rau quả như dưa chuột, cần tây, cà rốt có thể hoạt động như chất làm trắng răng và làm sạch mảng bám. Xây dựng các mô và thúc đẩy lưu lượng máu Dưa chuột rất giàu chất chống oxy hóa, tốt cho cơ thể và có lợi cho các hoạt động quan trọng. Chất chống oxy hóa cao có trong trái cây như dưa chuột có thể giúp điều chỉnh lưu lượng máu, đối phó với các gốc tự do và thậm chí giúp tái tạo sự phát triển của mô trong cơ thể. Giúp thải độc tố Ăn dưa chuột thường xuyên có thể điều chỉnh thói quen vệ sinh. Thêm vào đó, nó giúp cơ thể dễ dàng đào thải vi trùng và độc tố khó chịu có thể cản trở quá trình tiêu hóa khỏe mạnh. Dưa chuột không chỉ ngăn ngừa tình trạng mất nước mà còn chứa rất nhiều chất xơ. Hàm lượng magie và kali trong trái cây này cũng giúp loại bỏ các vấn đề như đầy hơi và bệnh đường ruột. Điều chỉnh mức cholesterol Một lý do khác để ăn dưa chuột thường xuyên là chúng có chứa hàm lượng pectin lành mạnh, một loại chất xơ hòa tan tự nhiên giúp giảm cholesterol trong máu, loại bỏ độc tố và tốt cho tim. Có thể ngăn ngừa ung thư Dưa chuột là một thành viên của họ bầu bí, chứa hàm lượng cao các chất dinh dưỡng có vị đắng gọi là cucurbitacin. Theo một bài báo trên Tạp chí Quốc tế về Dịch vụ Y tế, nghiên cứu thử nghiệm cho thấy dưa chuột có thể giúp ngăn chặn các tế bào ung thư sinh sôi. 133g dưa chuột với vỏ cung cấp khoảng 1g chất xơ. Chất xơ có thể giúp bảo vệ chống lại ung thư đại trực tràng. Dưa chuột cũng chứa nhiều loại vitamin B, vitamin A và chất chống oxy hóa, bao gồm một loại được gọi là lignans. Các nghiên cứu đã gợi ý rằng lignans trong dưa chuột và các loại thực phẩm khác có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và một số loại ung thư. Ngăn ngừa bệnh tiểu đường Dưa chuột chứa các chất có thể giúp giảm lượng đường trong máu hoặc ngăn lượng đường trong máu tăng quá cao. Một giả thuyết cho rằng cucurbitacins trong dưa chuột giúp điều chỉnh quá trình giải phóng insulin và chuyển hóa glycogen ở gan, một loại hormone quan trọng trong quá trình chuyển hóa đường trong máu. Một nghiên cứu cho thấy vỏ dưa chuột giúp kiểm soát các triệu chứng của bệnh tiểu đường ở chuột. Điều này có thể là do hàm lượng chất chống oxy hóa của nó. Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ AHA, chất xơ cũng có thể giúp ngăn ngừa và kiểm soát bệnh tiểu đường type 2. Ngoài ra, dưa chuột có chỉ số đường huyết (GI) thấp, rất tốt với bệnh nhân đái tháo đường. Dưa chuột tốt cho sức khỏe, song để duy trì một chế độ ăn uống lành mạnh, bạn cũng chỉ nên ăn với số lượng vừa phải cùng với các loại trái cây và rau quả khác. https://dantri.com.vn/suc-khoe/loi-ich-suc-khoe-bat-ngo-khi-an-dua-chuot-hang-ngay-20250115075548387.htm

Hưởng ứng: Ngày Thế giới không thuốc lá 31/5, Tuần lễ quốc gia không thuốc lá 25 – 31/5/2025 và tăng cường thực thi Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá trên địa bàn Thành phố năm 2025

Ngày thế giới không thuốc lá (31/5) năm 2025 này được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lấy chủ đề “Vạch trần sự hấp dẫn giả tạo”. Đây là chủ đề mang nhiều ý nghĩa với mục tiêu phơi bày chiến thuật của các tập đoàn thuốc lá trên giới… Chi tiết: xem tại đây! Bài viết tuyên truyền Phòng CTXH

Phòng ngừa và điều trị kịp thời về sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu là căn bệnh phổ biến đối với người Việt, nhưng không phải ai cũng hiểu hết về căn bệnh này. Sỏi tiết niệu là gì? Phát hiện và điều trị bệnh như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây. Sỏi tiết niệu là bệnh lý phổ biến, có thể gây đau đớn dữ dội song một số sỏi nhỏ hoặc nằm yên trong đường tiết niệu không gây triệu chứng rõ ràng, được gọi là “sỏi im lặng”. 1. Sỏi tiết niệu là gì?Hệ tiết niệu của con người gồm hai thận, hai niệu quản hai bên, bàng quang và cuối cùng là niệu đạo. Khi sỏi xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào của hệ tiết niệu nghĩa là đã mắc sỏi tiết niệu. Như vậy sỏi tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và sỏi niệu đạo. Hệ tiết niệu ở người 2. Nguyên nhân gây nên sỏi tiết niệu là gì? Sỏi tiết niệu có nhiều nguyên nhân. Sự hình thành sỏi thường do các muối khoáng hòa tan (canxi, oxalat, urat…) trong nước tiểu. Khi xuất hiện những rối loạn về mặt sinh lý bệnh kết hợp những yếu tố thuận lợi, như giảm lưu lượng nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu, thay đổi pH nước tiểu, dị dạng đường niệu, yếu tố di truyền,… thì các muối khoáng hòa tan sẽ kết tinh, hình thành một nhân nhỏ, sau đó lớn dần thành sỏi tiết niệu. 3. Những ai dễ bị sỏi tiết niệu? + Những người có bất thường bẩm sinh đường tiết niệu. + Gia đình có người mắc sỏi tiết niệu. + Bản thân từng trải qua can thiệp đường tiết niệu. + Bị viêm đường tiết niệu nhiều lần. + Người uống ít nước, đặc biệt là người cao tuổi. + Người nằm bất động lâu ngày. + Người bị mắc các bệnh lý rối loạn chuyển hóa (toan chuyển hóa mạn, tăng canxi niệu,…). + Đang sử dụng một số thuốc. + Người lao động trong môi trường nóng bức. + Người có thói quen thường xuyên nhịn tiểu. 4. Triệu chứng khi mắc sỏi tiết niệu? Đau: là biểu hiện hay gặp nhất, hay gặp ở vùng thắt lưng. Đau có thể âm ỉ kéo dài hoặc thành cơn đột ngột dữ dội, lan ra phía trước và xuống vùng bẹn sinh dục. Cơn đau có thể xuất hiện tự nhiên, nhưng thường sau vận động gắng sức, cơn đau kéo dài vài phút, có thể tự hết hoặc cần sự hỗ trợ của thuốc. Bất thường về đi tiểu: bệnh nhân có thể đái buốt (đái buốt cuối bãi đái hay đái buốt toàn bộ bãi đái), đái ngắt ngừng (đang tiểu bỗng nhiên bị ngừng lại, thay đổi tư thế lại tiểu được tiếp), đái khó, bí đái hoàn toàn, đái đục, đái máu (có thể nước tiểu có màu hồng đỏ hoặc chỉ phát hiện được hồng cầu trong nước tiểu nhờ xét nghiệm). Bệnh nhân có thể có sốt do nhiễm khuẩn. 5. Tác hại của sỏi tiết niệu? Đáng lo ngại là một số sỏi nhỏ hoặc nằm yên trong đường tiết niệu không gây triệu chứng rõ ràng, được gọi là “sỏi im lặng”. Những trường hợp này chỉ được phát hiện tình cờ khi siêu âm hoặc chụp CT kiểm tra sức khỏe định kỳ. Về lâu dài, sỏi không được loại bỏ sẽ làm tổn thương nhu mô thận, dẫn đến suy thận mạn tính – buộc bệnh nhân phải chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận. Đặc biệt, những cơn đau tái phát thường xuyên khiến người bệnh mất ngủ, căng thẳng, giảm hiệu suất lao động. 6. Điều trị và phòng tránh sỏi tiết niệu Việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước, vị trí sỏi và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Hiện nay, Bệnh viện Bắc Thăng Long đang ứng dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến, ít xâm lấn, giúp rút ngắn thời gian hồi phục. Điều trị nội khoa được chỉ định cho sỏi nhỏ dưới 7 mm. Bệnh nhân được khuyến cáo uống nhiều nước (2.5-3 lít/ngày), kết hợp thuốc giãn cơ trơn và giảm đau để đào thải sỏi tự nhiên. Tuy nhiên bệnh nhân cần tái khám sau thời gian dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ, nếu trường hợp điều trị nội khoa không đáp ứng, sỏi không tự đào thải được thì cần can thiệp phẫu thuật để xử lí sỏi, tránh gây ra các biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng thận và tình trạng sức khỏe chung. Với sỏi lớn hơn, trước đây tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL) từng là lựa chọn phổ biến nhờ ưu điểm không xâm lấn. Tuy nhiên, phương pháp này có một số nhược điểm như thường chỉ áp dụng cho sỏi nhỏ trên thận hoặc niệu quản đoạn trên, có thể gây tổn thương mô xung quanh, tỷ lệ sạch sỏi sau một lần tán còn thấp nên có trường hợp phải tán nhiều lần, đặc biệt trường hơp viên sỏi cứng hoặc người bệnh có thể trạng béo. Thay vào đó, nội soi tán sỏi ngược dòng bằng laser được ưu tiên cho sỏi niệu quản 1/3 dưới, 1/3 giữa hoặc bàng quang hoặc sử dụng ống nội soi mềm đưa qua đường niệu đạo (với sỏi niệu quản 1/3 trên hoặc sỏi thận dưới 2 cm) với ưu điểm vượt trội hoàn toàn giúp tán vụn sỏi mà không cần rạch da, đồng thời hạn chế những tai biến mà phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể mang lại. Đối với sỏi thận lớn trên 2 cm hoặc sỏi san hô, tán sỏi qua da (PCNL) là giải pháp tối ưu. Bác sĩ tạo một hay nhiều đường hầm nhỏ từ da vùng thắt lưng vào thận để tiếp

Đấu thầu

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám