BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Previous slide
Next slide
0 + NĂM
Hình Thành và Phát Triển
0 +
Giáo sư, Bác sĩ
0 +
Bệnh Nhân
0 %
Khách hàng hài lòng

BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG

Ngày 03/7/2000 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định số 67/QĐ-UB về việc đổi tên “Trung tâm y tế dự phòng than Khu vực Nội Địa” thành “Bệnh viện Bắc Thăng Long” Từ đây Bệnh viện đã trực thuộc Sở Y tế Hà Nội và hoạt động theo đúng ngành dọc của mình. Trụ sở đóng tại: Tổ 18, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Bệnh viện Bắc Thăng Long ngày nay với quy mô 420 giường bệnh, 28 khoa, phòng chức năng và 2 bộ phận…

CHUYÊN KHOA NỔI BẬT

ĐỘI NGŨ CHUYÊN GIA

BSCKII. Nguyễn Văn Thành

Phó giám đốc Bệnh viện

ThS. Phùng Văn Dũng

Phó giám đốc Bệnh viện

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Tăng cường an ninh bệnh viện ngăn hành hung y bác sĩ

Trong bối cảnh thời gian qua một số cơ sở khám chữa bệnh xảy ra tình trạng thân nhân người bệnh hành hung nhân viên y tế. Ngày 12/5, Bộ Y tế yêu cầu các bệnh viện triển khai biện pháp đảm bảo an ninh, có phương án phòng ngừa ứng phó với tình huống gây rối, hành hung nhân viên y tế. Điển hình, từ đầu năm 2025 đến nay liên tiếp 3 vụ việc tại Trung tâm Y tế huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai vào ngày 31/3; Trung tâm Y tế huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ vào ngày 28/4 và Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định vào ngày 3/5. “Các vụ việc trên làm mất trật tự, an ninh, an toàn bệnh viện; ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác khám chữa bệnh; ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe, đe dọa tính mạng, giảm động lực và sự tận tụy của đội ngũ thầy thuốc“, Bộ Y tế nêu. Vì vậy, Bộ Y tế yêu cầu lãnh đạo Sở Y tế địa phương, giám đốc bệnh viện tăng cường đảm bảo công tác an ninh, an toàn cho cơ sở khám chữa bệnh. Hệ thống camera an ninh được lắp đặt tại các khu vực trọng điểm như khoa khám bệnh, cấp cứu, phòng trực, hành lang hành chính, lối vào bệnh viện… Bệnh viện tăng cường nhân lực bảo vệ, bố trí trực 24/7 tại các vị trí trọng yếu và bảo đảm tính chủ động trong xử lý tình huống, đồng thời phối hợp với công an và chính quyền địa phương xử lý hành vi vi phạm. Mặt khác, bệnh viện rà soát quy trình tiếp nhận và xử trí cấp cứu, quy trình khám bệnh và các quy định về cung cấp, trao đổi thông tin với người bệnh cùng thân nhân. Nhân viên y tế phải được giáo dục đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử, kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống. Để giảm thời gian bệnh nhân chờ đợi, tránh quá tải, giảm nguy cơ xung đột, các bệnh viện tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh, đặc biệt là triển khai hiệu quả hồ sơ bệnh án điện tử, đăng ký khám trực tuyến, khám theo khung giờ… TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho hay tình trạng bác sĩ bị tấn công đã kéo dài nhiều năm và từng có những vụ việc nghiêm trọng dẫn tới tử vong. Áp lực khám chữa bệnh ngày càng lớn, ước tính mỗi năm có khoảng 200 triệu lượt khám, khiến đội ngũ y tế luôn trong tình trạng quá tải. Ngoài ra, tâm lý người bệnh và người nhà mong muốn được phục vụ nhanh, kỹ lưỡng, trong khi nguồn lực y tế có hạn, càng làm gia tăng căng thẳng. Sự kỳ vọng vượt ngoài khả năng đáp ứng của bệnh viện cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn. Ông dẫn chứng tại một số quốc gia phát triển, người dân có thể chờ đợi dịch vụ y tế nhiều tuần, trong khi tại Việt Nam chỉ cần phải đợi vài tiếng đã có thể gây bức xúc. Đồng thời, không loại trừ trường hợp y bác sĩ cư xử chưa phù hợp do áp lực công việc, khiến những va chạm nhỏ cũng có thể leo thang thành xung đột nếu cả hai bên thiếu kiềm chế. “Bộ Y tế đã ban hành quy tắc đạo đức ngành, lấy người bệnh làm trung tâm. Tuy nhiên, để bảo đảm môi trường an toàn cho y bác sĩ, rất cần sự hợp tác, chia sẻ và tôn trọng quy trình chuyên môn từ phía người dân”, ông Đức nói. https://vnexpress.net/siet-an-ninh-benh-vien-ngan-hanh-hung-y-bac-si-4884938.html

Bệnh viện Bắc Thăng Long tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày Quốc tế Điều dưỡng (12/5/1965 – 12/5/2025)

Chiều ngày 12/5, Bệnh viện Bắc Thăng Long tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm ngày Quốc tế Điều dưỡng (12/5/1965 – 12/5/2025). Thay mặt Ban giám đốc bệnh viện, Ths.Bác sĩ Phùng Văn Dũng – Phó Giám đốc bệnh viện dự và chủ trì chương trình.   Tại lễ kỷ niệm, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại lịch sử hình thành và phát triển ngành điều dưỡng, một ngành gắn liền với lòng nhân ái và đức hy sinh. Ngành điều dưỡng thế giới được hình thành từ thời La Mã cổ đại và có bước ngoặt quan trọng khi Florence Nightingale  “người phụ nữ với cây đèn”  đặt nền móng cho điều dưỡng hiện đại vào thế kỷ XIX. Ngày Quốc tế Điều dưỡng được lấy theo ngày sinh của bà (12/5) để tưởng nhớ những đóng góp vĩ đại ấy. Tại Việt Nam, ngành Điều dưỡng có truyền thống lâu đời, bắt nguồn từ tinh thần chăm sóc cộng đồng và kinh nghiệm y học dân tộc. Những tên tuổi như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông đã đặt nền móng cho y học cổ truyền, trong khi các tu viện phương Tây đầu thế kỷ XX đưa mô hình điều dưỡng hiện đại đến Việt Nam. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến, lực lượng điều dưỡng đóng vai trò tuyến đầu, chăm sóc thương binh, phòng chống dịch bệnh, góp phần vào chiến thắng chung của dân tộc. Nhân dịp tháng của những ngày lễ lớn như Ngày Quốc tế Lao động 1/5; Ngày sinh nhật Bác 19/5; Ngày Quốc tế hộ sinh 5/5, Ngày Quốc tế Điều dưỡng 12/5, Phòng điều dưỡng Bệnh viện cũng đã phát động chuỗi các hoạt động sôi nổi chào mừng 60 năm Ngày Quốc tế Điều dưỡng như: Tập huấn đổi mới công tác quản lý chăm sóc người bệnh tại khoa, nâng cao thái độ phục vụ người bệnh; hoạt động thăm hỏi tại giường. Tất cả các hoạt động đã tạo khí thế thi đua sôi nổi, gắn kết trong nội bộ các khoa. Đồng thời, mang lại nhiều giá trị nhân văn, tích cực động viên người bệnh. Phát biểu tại buổi lễ, Ths.Bác sĩ Phùng Văn Dũng – Phó Giám đốc bệnh viện ghi nhận và biểu dương tinh thần trách nhiệm, lòng tận tụy của các điều dưỡng viên – những “chiến sĩ áo trắng” luôn sát cánh bên người bệnh, ngày đêm không quản khó khăn, vất vả chăm sóc toàn diện cho người bệnh…thay mặt Ban giám đốc bệnh viện, Ths.Bác sĩ Phùng Văn Dũng – Phó Giám đốc bệnh viện tặng Phòng điều dưỡng lẵng hoa tươi thắm. Hình thành từ Bệnh viện công ty than III (1980); với vài cán bộ y tá đến khi thành lập Bệnh viện Bắc Thăng Long (2000) Phòng điều dưỡng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, chăm sóc tận tụy người bệnh và phục vụ ân cần nhân dân trong địa bàn. Đến nay, Phòng điều dưỡng Bệnh viện Bắc Thăng Long đã phát triển lên một tầm cao mới. Với đội ngũ Điều dưỡng, Hộ sinh trong toàn bệnh viện có trình độ, nhiệt huyết và tận tụy với nghề. Trong đó hơn 80% số điều dưỡng viên có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên, đủ khả năng giải quyết các vấn đề chăm sóc phức tạp. Phòng CTXH  

Bộ Y tế yêu cầu việc tuân thủ các quy định về đào tạo, cập nhật kiến thức y khoa liên tục

Bộ Y tế vừa có văn bản về đảm bảo chất lượng, tuân thủ các quy định về đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức y khoa liên tục cho cán bộ y tế tế gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Các Bệnh viện, Viện, Trường thuộc Bộ Y tế; Y tế các Bộ, ngành. Theo Bộ Y tế, công tác đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức y khoa liên tục cho cán bộ y tế nhằm nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế. Hiện nay, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Y tế đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về đào tạo liên tục cán bộ y tế, bao gồm: Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 15/2023/QH15; Nghị định số 96/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư số 32/2023/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư số 22/2013/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn việc đào tạo liên tục cho cán bộ y tế và Thông tư số 26/2020/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2013/TT-BYT. Bộ Y tế cho rằng, trong thời gian vừa qua các đơn vị đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong đào tạo liên tục, để nâng cao năng lực cho cán bộ y tế nhằm thực hiện tốt công tác nâng cao sức khỏe nhân dân. Công tác đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức y khoa liên tục cho cán bộ y tế nhằm nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế. Tuy nhiên bên cạnh các kết quả đã đạt được, việc triển khai công tác đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức y khoa liên tục còn một số bất cập, chất lượng chưa đảm bảo theo yêu cầu. Để khắc phục các tồn tại và tiếp tục tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo liên tục, cập nhật kiến thức y khoa liên tục, Bộ Y tế đề nghị Thủ trưởng các đơn vị chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc tổ chức thực hiện công tác đào tạo liên tục đúng theo các quy định tại Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 15/2023/QH15, Nghị định số 96/2023/ND-CP, Thông tư số 32/2023/TT-BYT, Thông tư số 22/2013/TT-BYT, Thông tư số 26/2020/TT-BYT và các văn bản hướng dẫn có liên quan của Bộ Y tế. Tiếp tục phổ biến, quán triệt việc thực hiện dùng các quy định của pháp luật hiện hành về đào tạo liên tục đến các giảng viên, các cán bộ liên quan và người học… như quy định về công tác tuyển sinh, tổ chức quản lý đào tạo, cấp phát chứng chỉ, chứng nhận tham gia các khóa đào tạo bồi dưỡng hội nghị hội thảo…; tổ chức quản lý công tác đào tạo liên tục đảm bảo công khai, minh bạch. khách quan, hiệu quả và kiểm soát tốt chất lượng đồng thời phải đảm bảo khuyến khích và tạo điều kiện để cán bộ y tế nâng cao năng lực phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh cho người dân. Quán triệt, chỉ đạo rà soát, tăng cường công tác tự kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo liên tục cán bộ y tế của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm trước pháp luật về đảm bảo chất lượng đào tạo liên tục và tính pháp lý của việc cấp phát các chứng chỉ, chứng nhận đào tạo liên tục cán bộ y tế của đơn vị. Bộ Y tế giao Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo tăng cường kiểm tra việc tô chức đào tạo liên tục cán bộ y tế tại các địa phương, đơn vị và xử lý hoặc kiến nghị xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm (nếu có) theo quy định của pháp luật. Trong quá trình triển khai thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc, đề nghị các đơn vị báo cáo Bộ Y tế (qua Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo) để được chỉ đạo giải quyết. https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bo-y-te-yeu-cau-viec-tuan-thu-cac-quy-inh-ve-ao-tao-cap-nhat-kien-thuc-y-khoa-lien-tuc?inheritRedirect=false&redirect=https%3A%2F%2Fmoh.gov.vn%3A443%2Ftin-lien-quan%3Fp_p_id%3D101_INSTANCE_vjYyM7O9aWnX%26p_p_lifecycle%3D0%26p_p_state%3Dnormal%26p_p_mode%3Dview%26p_p_col_id%3Drow-4-column-1%26p_p_col_count%3D2

Bác Hồ và những lời căn dặn đối với người thầy thuốc

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến ngành Y, đến người thầy thuốc. Những tư tưởng, lời dạy của Người về y đức của người thầy thuốc được thể hiện thông qua những bài nói, bài viết và thư gửi các hội nghị y tế toàn quốc đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tháng 3-1948, trong thư gửi Hội nghị Quân y, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Khi gặp “một số anh em quân nhân không được trấn tĩnh, người thầy thuốc “nên lấy lòng nhân loại và tình thân ái mà cảm động cảm hóa họ. Theo Người, thầy thuốc là phải hết lòng yêu thương, tận tình chăm sóc, quan tâm đến tâm tư, tình cảm của người bệnh. Bởi để chữa trị bệnh tật tận gốc thì không chỉ nhìn vào những vết thương bề ngoài. Những vấn đề về tinh thần, tình cảm càng cần phải được quan tâm để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cũng như y đức của người thầy thuốc. Mặt khác, theo Bác: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú (cán bộ y tế – người trích). Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”. “Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”. Bác Hồ với cán bộ Y tế (hình sưu tầm) Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ y tế toàn quốc, tháng 6-1953, Người chỉ rõ: Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh, để làm tròn nhiệm vụ ấy, cán bộ y tế cần phải thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh: “Lương y phải kiêm từ mẫu”. Đọc lời dạy của Bác chúng ta hiểu các thầy thuốc phải có lương tâm và nghĩa vụ cao cả như của người mẹ hiền đối với bệnh nhân. Có thể nói, lương tâm với người bệnh là cơ sở để hình thành những đức tính cần thiết của người thầy thuốc. Lời dạy này của Người đến nay đã trở thành bài học vô cùng quý giá đối với mỗi người thầy thuốc Việt Nam cũng như cả ngành Y tế. Theo Bác, người thầy thuốc vừa phải có đức, vừa phải có tài. Vì vậy, đội ngũ thầy thuốc, về chuyên môn, cần thường xuyên “học tập nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ”, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; về chính trị, cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ như “yêu nước, yêu dân, yêu nghề… thi đua học tập, thi đua công tác”. Hơn nữa, người cán bộ y tế cần quán triệt nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng, tức là phải xây dựng nền y tế Việt Nam vừa mang tính truyền thống dân tộc, vừa tiếp thu được tinh hoa y học của thời đại. Cụ thể, yếu tố dân tộc và thời đại hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau, thành một chỉnh thể thống nhất nhằm phục vụ nhân dân tốt nhất. Không chỉ chú ý đến mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, Người còn quan tâm đến mỗi quan hệ giữa các thầy thuốc, cán cán bộ làm công tác y tế với nhau. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế, tháng 2-1955, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân”. Đoàn kết trong y đức là mối quan hệ đồng nghiệp, giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa những nhân viên trong ngành y tế cùng nhằm tới mục đích vì sức khỏe con người. Đoàn kết trong ngành Y là yêu cầu cần thiết để tạo nên sức mạnh, vượt qua khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn. Vào những năm cuối đời, tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng Bác Hồ vẫn luôn đau đáu nỗi niềm hướng về đồng bào miền Nam ruột thịt; về cán bộ, chiến sỹ đang ngày đêm anh dũng chiến đấu và hy sinh cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Ngày 31/7/1967, trong bức thư khen cán bộ, nhân viên Quân y, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là người mẹ hiền, hết lòng hết sức cứu chữa và phục vụ thương binh, bệnh binh, tích cực nâng cao sức khoẻ của bộ đội, góp phần cùng toàn quân, toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn”. Đây là bức thư cuối cùng Người viết gửi ngành Y tế nước ta. Lúc cuối đời, trong Bản Di chúc, Bác đã dặn dò phải “phát triển công tác vệ sinh, y tế…”. Nói như vậy, ta có thể cảm nhận được sự quan tâm của Bác Hồ dành cho ngành Y tế, cho các thầy thuốc. Từ những lời căn dặn của Người, ngày 6/2/1985, Hội đồng Bộ trưởng đã đưa ra quyết định ngày 27/2 hàng năm là Ngày thầy thuốc Việt Nam nhằm nêu cao trách nhiệm và tài trí của

HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU

Kỳ tích y học: Việt Nam lần đầu thực hiện thành công ghép tim nhân tạo bán phần

Ngày 12/04, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Hà Nội) cho biết đã thực hiện thành công ca ghép tim nhân tạo bán phần thế hệ thứ 3 (LVAD – Heart Mate3) lần đầu tiên tại Việt Nam. Trước đó, tháng 3-2025, bệnh nhân nữ HTX (46 tuổi, Thanh Hóa) nhập viện, được các bác sĩ chẩn đoán suy tim phân suất tống máu giảm nặng (EF chỉ còn 19%) do bệnh cơ tim giãn, kết hợp với các biến chứng nguy hiểm như nhồi máu não và tắc động mạch dưới đòn phải. Theo lời kể của người bệnh, chị đã được chẩn đoán suy tim giai đoạn cuối và điều trị bằng thuốc trong nhiều năm, tuy nhiên tình trạng sức khỏe không cải thiện, có những cơn khó thở cấp, tràn dịch màng phổi số lượng nhiều phải nhập viện cấp cứu. Bệnh nhân đã được hội chẩn cả trong nước và quốc tế, được chỉ định cấy ghép thiết bị hỗ trợ thất trái (LVAD – Left Ventricular Assist Device) thế hệ thứ 3, là thế hệ mới nhất nhằm thay thế chức năng bên trái của tim. Thiết bị hỗ trợ thất trái hoạt động như một chiếc bơm cơ học, bơm máu từ tim đến động mạch chủ, với cấu tạo và cơ chế hoạt động đặc biệt giúp tối ưu được dòng máu bơm ra, đồng thời giảm các nguy cơ huyết khối, tan máu. Thiết bị có dây nối với pin bên ngoài cơ thể. Thiết bị đã được chứng minh có khả năng kéo dài thời gian và chất lượng cuộc sống vượt trội cho người bệnh suy tim giai đoạn muộn. Ca phẫu thuật ghép tim nhân tạo được thực hiện bởi các bác sĩ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 dưới sự hướng dẫn của GS Jan D.Schmitto – Chủ tịch Hội Tuần hoàn cơ học châu Âu. Ông cũng là người đầu tiên trên thế giới thực hiện thành công ca ghép tim nhân tạo bán phần thế hệ thứ 3 cho một bệnh suy tim giai đoạn cuối vào năm 2014 (hiện sau 11 năm, bệnh nhân này vẫn sinh hoạt bình thường). Sau 2 tuần cấy ghép, bệnh nhân HTX đã đi lại, sinh hoạt cá nhân hoàn toàn ổn định, đang được hướng dẫn theo các quy trình chăm sóc chuyên môn để sẵn sàng xuất viện. “Trước đây mỗi lần nhập viện, tôi đều rất lo sợ bởi không biết trái tim mình sẽ ngừng đập lúc nào. Tôi mong được sống để chứng kiến đám cưới của con trai dù cháu đang là sinh viên đại học. Hiện tại, tôi cảm thấy rất khoẻ mạnh và chờ đến ngày được ra viện”, chị X chia sẻ. Theo TS Đặng Việt Đức, Phó Viện trưởng Viện Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, thiết bị hỗ trợ thất trái thế hệ thứ 3 (LVAD- Heart Mate3) đang là một trong những kỹ thuật tiên tiến nhất, kỹ thuật cao nhất trong lĩnh vực tim mạch, đặc biệt trong điều trị bệnh nhân suy tim nặng. Với khả năng hỗ trợ, thay thế chức năng bơm máu của tâm thất trái, thiết bị này giúp cải thiện lưu lượng máu đến các cơ quan trong cơ thể, giúp bệnh nhân duy trì cuộc sống bình thường. Suy tim là giai đoạn cuối của các bệnh lý tim mạch, có tỉ lệ tử vong cao nhất trên thế giới, cao hơn cả bệnh lý ung thư và đột quỵ. Khoảng 50% bệnh nhân suy tim không sống quá 5 năm sau khi được bác sĩ chẩn đoán. Ở bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối, con số này còn cao hơn, với tiên lượng sống trung bình khoảng 6-12 tháng, tỉ lệ tử vong trên 75% sau 1 năm. Theo các chuyên gia, thành công của ca ghép tim nhân tạo bán phần thế hệ thứ 3 đầu tiên tại Việt Nam đã mở ra cơ hội cho hàng nghìn người bệnh suy tim giai đoạn cuối. Thành công này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực phẫu thuật tim mạch nước nhà, khẳng định năng lực chuyên môn vững vàng cùng chiến lược đầu tư, chỉ đạo đúng đắn trong phát triển kỹ thuật cao. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 định hướng đến năm 2030 trở thành đơn vị tiên phong trong các kỹ thuật y khoa tiên tiến nhất của thế giới, sau đó làm chủ và chuyển giao cho các bệnh viện khác trong nước. https://plo.vn/ky-tich-y-hoc-viet-nam-lan-dau-thuc-hien-thanh-cong-ghep-tim-nhan-tao-ban-phan-post843933.html Xem thêm: Bệnh viện Bắc Thăng Long không ngừng phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao

Đau rễ thần kinh cột sống – Dấu hiệu, nguyên nhân và cách điều trị

Bệnh tan máu bẩm sinh hiện đang ngày càng phổ biến nên rất nhiều người đã và đang có nhu cầu tầm soát bệnh tan máu bẩm sinh tiền hôn nhân để thế hệ sau được khỏe mạnh. BỆNH VIỆN ĐA KHOA HÀ NỘI sẽ cung cấp cho các bạn một vài thông tin hữu ích liên quan đến vấn đề này. TAN MÁU BẨM SINH LÀ GÌ? Tan máu bẩm sinh (Thalassemia) là một nhóm bệnh rối loạn máu di truyền có thể di truyền từ cha mẹ sang con cái và ảnh hưởng đến số lượng và loại hemoglobin mà cơ thể sản xuất. Khi mắc bệnh, hemoglobin của bệnh nhân được phát hiện có cấu trúc bất thường, hậu quả là hồng cầu bị phá hủy, quá trình vận chuyển oxy gặp nhiều gián đoạn. Đó là nguyên nhân khiến người mắc hội chứng tan máu phải đối mặt với tình trạng thiếu máu cực kỳ nghiêm trọng. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH DI TRUYỀN NHƯ THẾ NÀO? Đây là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy tỷ lệ nam và nữ bị bệnh như nhau. Khi cả vợ và chồng cùng mang gen bệnh thalassemia thì mỗi lần sinh có 25% nguy cơ con bị bệnh, 50% khả năng con mang một gen bệnh và 25% khả năng con bình thường. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách.  

Những dấu hiệu biến mất rất nhanh cảnh báo đột quỵ

Các bác sĩ cảnh báo đừng bỏ qua các triệu chứng như tê yếu cánh tay, nói khó đột ngột xuất hiện rồi biến mất rất nhanh. Đó có thể là dấu hiệu sớm của đột quỵ. Các triệu chứng giống như đột quỵ nhưng không kéo dài báo hiệu cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA) còn gọi là đột quỵ nhỏ. Biểu hiện của tình trạng trên tương tự như đột quỵ thông thường – khuôn mặt chảy xệ, cánh tay yếu và nói ngọng nghịu. “Điểm khác biệt duy nhất của đột quỵ nhỏ là không dẫn đến tổn thương thần kinh ngay lập tức”, Tiến sĩ Ahmed Itrat, Giám đốc y khoa Đột quỵ tại Cleveland Clinic Akron General (Mỹ) cho hay. Nhưng bệnh nhân thường có nguy cơ đột quỵ toàn phát trong những ngày hoặc những tuần sau đó. Tiến sĩ Brandon Giglio, Trưởng khoa Thần kinh mạch máu tại Bệnh viện NYU Langone (Mỹ), nói với Huffington Post: “Ở nhiều trường hợp, đây thực sự là điềm báo một người sẽ bị đột quỵ trong vòng 7, 30, 90 ngày tới, thậm chí chỉ trong 48 giờ”. Nghệ sĩ guitar huyền thoại của Queen là Brian May gần đây bị đột quỵ nhỏ khiến ông tạm thời mất khả năng kiểm soát cánh tay trái của mình. Các bác sĩ khuyên ông nên nghỉ ngơi sau sự cố sức khỏe. “Tôi không được ra ngoài, lái xe, lên máy bay, tôi không được phép làm nhịp tim tăng quá cao”, Brian May chia sẻ trong một tin nhắn video gửi đến người hâm mộ. Các triệu chứng của đột quỵ nhỏ Theo Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh, đột quỵ nhỏ có thể xảy ra khi nguồn cung cấp máu lên não bị gián đoạn tạm thời. Các triệu chứng chính của tình trạng này giống đột quỵ toàn phần có thể được ghi nhớ bằng cụm từ BEFAST (nhanh chóng): Balance (Cân bằng): Mất thăng bằng. Eyesight (Thị lực): Thay đổi về thị lực như mờ mắt hoặc nhìn đôi  Face (Khuôn mặt): Một bên mặt sụp xuống, người bệnh có thể không cười được  Arms (Cánh tay): Một cánh tay bị yếu hoặc tê, không thể nâng lên được Speech (Lời nói): Líu lưỡi hoặc nói lắp bắp, không hiểu lời người khác Time (Thời gian): Những người xung quanh nên gọi cấp cứu cho bệnh nhân ngay lập tức.  Dấu hiệu của đột quỵ và cách xử trí. Ảnh: Apprhs Đột quỵ nhỏ kéo dài bao lâu?  Theo Tiến sĩ Joshua Willey, chuyên gia về thần kinh học tại Đại học Columbia (Mỹ), đột quỵ nhỏ có thể kéo dài trong khoảng 5-10 phút, đôi khi chỉ xuất hiện trong 30-60 giây. Tiến sĩ Itrat đánh giá: “Mặc dù các cơn thiếu máu cục bộ chỉ thoáng qua nhưng khi một người có triệu chứng, không có cách nào để dự đoán liệu tình trạng đó có thuyên giảm hay sẽ kéo dài và dẫn đến khuyết tật”. Bởi vậy, bạn không nên coi nhẹ một phút đau cánh tay hoặc mờ mắt bởi cảm giác này có thể báo hiệu hậu quả nghiêm trọng hơn trong nhiều ngày hoặc nhiều tháng sau. https://vietnamnet.vn/dau-hieu-canh-bao-dot-quy-truoc-ca-thang-2318994.html

Có thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh thoái hóa khớp không?

Bệnh tan máu bẩm sinh hiện đang ngày càng phổ biến nên rất nhiều người đã và đang có nhu cầu tầm soát bệnh tan máu bẩm sinh tiền hôn nhân để thế hệ sau được khỏe mạnh. BỆNH VIỆN ĐA KHOA HÀ NỘI sẽ cung cấp cho các bạn một vài thông tin hữu ích liên quan đến vấn đề này. TAN MÁU BẨM SINH LÀ GÌ? Tan máu bẩm sinh (Thalassemia) là một nhóm bệnh rối loạn máu di truyền có thể di truyền từ cha mẹ sang con cái và ảnh hưởng đến số lượng và loại hemoglobin mà cơ thể sản xuất. Khi mắc bệnh, hemoglobin của bệnh nhân được phát hiện có cấu trúc bất thường, hậu quả là hồng cầu bị phá hủy, quá trình vận chuyển oxy gặp nhiều gián đoạn. Đó là nguyên nhân khiến người mắc hội chứng tan máu phải đối mặt với tình trạng thiếu máu cực kỳ nghiêm trọng. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH DI TRUYỀN NHƯ THẾ NÀO? Đây là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy tỷ lệ nam và nữ bị bệnh như nhau. Khi cả vợ và chồng cùng mang gen bệnh thalassemia thì mỗi lần sinh có 25% nguy cơ con bị bệnh, 50% khả năng con mang một gen bệnh và 25% khả năng con bình thường. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách. BỆNH TAN MÁU BẨM SINH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG? Các chuyên gia phân tích mức độ nguy hiểm của bệnh Thalassemia tùy theo số lượng gen bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Trẻ có thể tử vong ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng sớm khi trẻ chưa đến 2 tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt là xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ ràng khi trẻ lớn hơn 6 tuổi. Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình Mức độ nhẹ, triệu chứng thiếu máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai…Thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. Đối với thể nặng, nếu không được điều trị hầu hết bệnh nhân chết khi dưới 10 tuổi vì: suy tim sung huyết do nhiễm sắt; rối loạn nhịp tim; nhiễm khuẩn huyết thứ phát nhất là sau cắt lách.  

Tư vấn sức khoẻ

Phòng ngừa và điều trị kịp thời về sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu là căn bệnh phổ biến đối với người Việt, nhưng không phải ai cũng hiểu hết về căn bệnh này. Sỏi tiết niệu là gì? Phát hiện và điều trị bệnh như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây. Sỏi tiết niệu là bệnh lý phổ biến, có thể gây đau đớn dữ dội song một số sỏi nhỏ hoặc nằm yên trong đường tiết niệu không gây triệu chứng rõ ràng, được gọi là “sỏi im lặng”. 1. Sỏi tiết niệu là gì?Hệ tiết niệu của con người gồm hai thận, hai niệu quản hai bên, bàng quang và cuối cùng là niệu đạo. Khi sỏi xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào của hệ tiết niệu nghĩa là đã mắc sỏi tiết niệu. Như vậy sỏi tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và sỏi niệu đạo. Hệ tiết niệu ở người 2. Nguyên nhân gây nên sỏi tiết niệu là gì? Sỏi tiết niệu có nhiều nguyên nhân. Sự hình thành sỏi thường do các muối khoáng hòa tan (canxi, oxalat, urat…) trong nước tiểu. Khi xuất hiện những rối loạn về mặt sinh lý bệnh kết hợp những yếu tố thuận lợi, như giảm lưu lượng nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu, thay đổi pH nước tiểu, dị dạng đường niệu, yếu tố di truyền,… thì các muối khoáng hòa tan sẽ kết tinh, hình thành một nhân nhỏ, sau đó lớn dần thành sỏi tiết niệu. 3. Những ai dễ bị sỏi tiết niệu? + Những người có bất thường bẩm sinh đường tiết niệu. + Gia đình có người mắc sỏi tiết niệu. + Bản thân từng trải qua can thiệp đường tiết niệu. + Bị viêm đường tiết niệu nhiều lần. + Người uống ít nước, đặc biệt là người cao tuổi. + Người nằm bất động lâu ngày. + Người bị mắc các bệnh lý rối loạn chuyển hóa (toan chuyển hóa mạn, tăng canxi niệu,…). + Đang sử dụng một số thuốc. + Người lao động trong môi trường nóng bức. + Người có thói quen thường xuyên nhịn tiểu. 4. Triệu chứng khi mắc sỏi tiết niệu? Đau: là biểu hiện hay gặp nhất, hay gặp ở vùng thắt lưng. Đau có thể âm ỉ kéo dài hoặc thành cơn đột ngột dữ dội, lan ra phía trước và xuống vùng bẹn sinh dục. Cơn đau có thể xuất hiện tự nhiên, nhưng thường sau vận động gắng sức, cơn đau kéo dài vài phút, có thể tự hết hoặc cần sự hỗ trợ của thuốc. Bất thường về đi tiểu: bệnh nhân có thể đái buốt (đái buốt cuối bãi đái hay đái buốt toàn bộ bãi đái), đái ngắt ngừng (đang tiểu bỗng nhiên bị ngừng lại, thay đổi tư thế lại tiểu được tiếp), đái khó, bí đái hoàn toàn, đái đục, đái máu (có thể nước tiểu có màu hồng đỏ hoặc chỉ phát hiện được hồng cầu trong nước tiểu nhờ xét nghiệm). Bệnh nhân có thể có sốt do nhiễm khuẩn. 5. Tác hại của sỏi tiết niệu? Đáng lo ngại là một số sỏi nhỏ hoặc nằm yên trong đường tiết niệu không gây triệu chứng rõ ràng, được gọi là “sỏi im lặng”. Những trường hợp này chỉ được phát hiện tình cờ khi siêu âm hoặc chụp CT kiểm tra sức khỏe định kỳ. Về lâu dài, sỏi không được loại bỏ sẽ làm tổn thương nhu mô thận, dẫn đến suy thận mạn tính – buộc bệnh nhân phải chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận. Đặc biệt, những cơn đau tái phát thường xuyên khiến người bệnh mất ngủ, căng thẳng, giảm hiệu suất lao động. 6. Điều trị và phòng tránh sỏi tiết niệu Việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước, vị trí sỏi và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Hiện nay, Bệnh viện Bắc Thăng Long đang ứng dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến, ít xâm lấn, giúp rút ngắn thời gian hồi phục. Điều trị nội khoa được chỉ định cho sỏi nhỏ dưới 7 mm. Bệnh nhân được khuyến cáo uống nhiều nước (2.5-3 lít/ngày), kết hợp thuốc giãn cơ trơn và giảm đau để đào thải sỏi tự nhiên. Tuy nhiên bệnh nhân cần tái khám sau thời gian dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ, nếu trường hợp điều trị nội khoa không đáp ứng, sỏi không tự đào thải được thì cần can thiệp phẫu thuật để xử lí sỏi, tránh gây ra các biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng thận và tình trạng sức khỏe chung. Với sỏi lớn hơn, trước đây tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL) từng là lựa chọn phổ biến nhờ ưu điểm không xâm lấn. Tuy nhiên, phương pháp này có một số nhược điểm như thường chỉ áp dụng cho sỏi nhỏ trên thận hoặc niệu quản đoạn trên, có thể gây tổn thương mô xung quanh, tỷ lệ sạch sỏi sau một lần tán còn thấp nên có trường hợp phải tán nhiều lần, đặc biệt trường hơp viên sỏi cứng hoặc người bệnh có thể trạng béo. Thay vào đó, nội soi tán sỏi ngược dòng bằng laser được ưu tiên cho sỏi niệu quản 1/3 dưới, 1/3 giữa hoặc bàng quang hoặc sử dụng ống nội soi mềm đưa qua đường niệu đạo (với sỏi niệu quản 1/3 trên hoặc sỏi thận dưới 2 cm) với ưu điểm vượt trội hoàn toàn giúp tán vụn sỏi mà không cần rạch da, đồng thời hạn chế những tai biến mà phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể mang lại. Đối với sỏi thận lớn trên 2 cm hoặc sỏi san hô, tán sỏi qua da (PCNL) là giải pháp tối ưu. Bác sĩ tạo một hay nhiều đường hầm nhỏ từ da vùng thắt lưng vào thận để tiếp cận trực tiếp sỏi, tán sỏi và hút

Cấp cứu: gắp thành công dị vật là hạt hồng xiêm ra khỏi phế quản gốc Trái bệnh nhân 85 tuổi

Cụ bà 85 tuổi, bị ho kéo dài 3 tháng nay, đã đi khám chữa rất nhiều nơi không khỏi. Chụp CT ở phòng khám tư thấy có khối ở phế quản gốc Trái, được chỉ định nội soi phế quản ống mềm… bệnh nhân được người nhà đưa đến Bệnh viện Bắc Thăng Long cấp cứu. Khi nhập viện, bệnh nhân được hội chẩn bởi các bác sĩ chuyên khoa: Hô hấp, Chẩn đoán hình ảnh: tiến hành nội soi phát hiện có dịch nhầy bao phủ xung quanh, làm xây xước niêm mạc phế quản và gây tắc nghẽn gần hoàn toàn phế quản gốc Trái, khi đưa ống soi mềm vào phế quản gốc Trái thì phát hiện có dị vật là hạt hồng xiêm. Khai thác tiền sử thì bệnh nhân không nhớ mình bị hóc hạt hồng xiêm từ bao giờ. Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo hô hấp cho bệnh nhân, lấy được dị vật ra ngoài nhưng không làm tổn thương đường thở Kíp nội soi đã dùng dụng cụ chuyên dụng tiến hành gắp dị vật. Thủ thuật khá khó khăn do hạt hồng xiêm nhẵn, lại có dịch nhầy bao phủ thời gian dài nên rất trơn, khó gắp. Sau gần 30 phút với sự nỗ lực của kíp nội soi, đã gắp thành công hạt hồng xiêm ra khỏi phế quản và hút hết dịch nhầy, soi kiểm tra đánh giá lại thấy đường thở đã thông thoáng. Người nhà và bệnh nhân lúc đầu tưởng bị U phổi, đã rất vui mừng và phấn khởi khi các y – bác sĩ tìm được nguyên nhân gây ho kéo dài. Dị vật tai mũi họng là tình trạng khá phổ biến và hay gặp trong cuộc sống hiện nay, đặc biệt là ở trẻ em, người cao tuổi và người mắc các bệnh rối loạn về tâm thần. Gắp dị vật trong họng là biện pháp cấp cứu, xử lý khi gặp tình trạng dị vật trong họng. Tuy nhiên cần phải lưu ý khi thực hiện để tránh các biến chứng nguy hiểm khác. Triệu chứng khi gặp phải dị vật trong họng Triệu chứng thường hay thấy nhất khi gặp phải dị vật trong họng là đang ăn, uống hoặc chơi thì đột nhiên ho sặc sụa, thở rít, chảy nước mắt, mặt đỏ. Ngoài ra, còn thấy khó thở dữ dội, mặt và môi tím tái, có thể ngừng thở. Nặng hơn nữa là bất tỉnh hoặc đái dầm. Những dị vật này thường gây tắc nghẽn đường thở. Đối với bệnh nhân bị mắc dị vật trong họng không gây tắc nghẽn đường thở hoặc tắc nghẽn đường thở không hoàn toàn thường có tiền sử bị nghẹn, nuốt đau, khó nuốt hoặc khó nói. Dị vật trong họng cũng nên nghi ngờ gặp phải ở những người có triệu chứng như ho, thở rít hoặc khàn tiếng mà không rõ nguyên nhân. Đối với trẻ em có các dấu hiệu như thở rít, tắc nghẽn đường thở một phần thì cần phải hỏi rõ bố mẹ xem bé có từng bị nghẹn thở hay hít sặc bao giờ không. Trong những trường hợp này việc chẩn đoán nguyên nhân do dị vật ở hạ họng thường khó. Bởi vì các triệu chứng này xuất hiện chậm hơn sẽ làm lu mờ đi các dấu hiệu mắc dị vật ban đầu. Có nhiều trường hợp dị vật trong họng – hạ họng đã chẩn đoán sai và được điều trị như trường hợp bị bạch hầu thanh quản. Vậy nên các bác sĩ điều trị cần phải lưu ý trên những bệnh nhân có dấu hiệu về đường hô hấp trên không giải thích được. Đặc biệt là ở trẻ em từng có tiền sử bị tắc nghẹt đường thở (choking). Gắp dị vật trong họng Hầu hết những dị vật trong họng đều là những mảnh nhựa, đinh ghim bằng kim loại, các loại hạt, xương cá, xương lợn, xương gà, đồng xu, răng giả… việc chụp X-quang sẽ giúp xác định được vị trí cũng như kích thước của đồng xu, cục pin và những vật cản quang khác, nhưng hầu hết những dị vật trong thanh quản như xương cá thì lại không cản quang. Vì vậy, việc can thiệp phẫu thuật để gắp dị vật trong họng cần phải dựa vào tiền sử bệnh lý và khám thực thể để xác định có dị vật không. Sau khi đã xác định cần phải can thiệp phẫu thuật gắp dị vật trong họng, bác sĩ sẽ kiểm tra kỹ đối với bệnh nhân về các xét nghiệm cơ bản, tiền sử bị dị ứng hoặc các bệnh khác, chụp X-quang nếu có. Sau khi thực hiện xong thủ thuật thì cần phải theo dõi bệnh nhân bằng cách cho dùng kháng sinh, giảm viêm trong 5 ngày. Theo dõi tình trạng tràn khí, nhiễm trùng vùng cổ nếu xảy ra. Dị vật tai mũi họng nói chung và dị vật trong họng nói riêng là vấn đề y khoa rất phổ biến, thường xảy ra hàng ngày. Để tránh gặp phải những biến chứng nguy hiểm, việc thăm khám và gắp dị vật trong họng ra cần phải được thực hiện kịp thời, đúng cách. Bệnh nhân nên đến cơ sở y tế để được xử lý nhằm hạn chế tối đa những tổn thương và rủi ro cho đường hô hấp. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE 0889 615 815 hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY Phòng CTXH

Rối loạn mỡ máu đến mức nào thì cần dùng thuốc ?

Xét nghiệm bộ mỡ máu, gồm cholesterol toàn phần, Triglyceride, HDL-C (mỡ tốt) và LDL-C (mỡ xấu), hiện được coi như một xét nghiệm thông thường. Tuy nhiên hầu như ai cũng có bị tăng hoặc giảm một trong bốn thành phần trên, nhiều người cho là “bình thường, không đáng ngại”, nhưng cũng có rất nhiều người lo lắng và tìm cách uống đủ các loại thuốc để mong mỡ máu về bình thường. Chỉ định điều trị của các Bác sỹ cũng có thể rất khác nhau. Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch châu Âu (ESC) năm 2019, thì việc chỉ định dùng thuốc điều trị rối loạn mỡ máu cần được cân nhắc dựa trên nguy cơ bị các biến chứng tim mạch, tiền sử đã có bệnh tim mạch hay chưa, tiền sử gia đình có người bị bệnh tim mạch hay không, bệnh đi kèm, và mức độ rối loạn mỡ máu… Cụ thể là: 1. Nguy cơ tim mạch rất cao: 1.1. Định nghĩa: – Đã có bệnh tim mạch do xơ vữa như nhồi máu cơ tim, bệnh mạch vành, stent mạch vành, đột quỵ não, tai biến mạch não thoáng qua. – Chụp mạch vành hoặc siêu âm động mạch cảnh thấy có hẹp > 50% – Đái tháo đường đã có các biến chứng mạn tính (mắt, tim, thận…) hoặc có ≥ 3 yếu tố nguy cơ tim mạch, hoặc ĐTĐ typ 1 đã > 20 năm – Suy thận nặng, mức lọc cầu thận < 30 mL/phút – Tiền sử gia đình có người bị bệnh tim mạch do xơ vữa hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch nặng. 1.2. Điều trị: – LDL-C từ 1,4 – < 1,8 mmol/L: Thay đổi lối sống và cân nhắc dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu – LDL-C ≥ 1,8 mmol/L: phải dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu 2. Nguy cơ tim mạch cao: 2.1. Định nghĩa: – Có yếu tố nguy cơ tim mạch nặng như Choletsterol toàn phần > 8 mmol/L, LDL-C > 4,9 mmol/L, hoặc huyết áp ≥ 180/110mmHg. – BN ĐTĐ ≥ 10 năm, hoặc có các yếu tố nguy cơ tim mạch khác – Tiền sử gia đình có người bị bệnh tim mạch do xơ vữa hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch nặng. – Bệnh thận mạn giai đoạn 3, mức lọc cầu thận từ 30 – 59 mL/phút 2.2. Điều trị: – Đã thay đổi lối sống, mà LDL-C từ 1,8 – < 2,6 mmol/L: cân nhắc dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu – LDL-C ≥ 2,6 – < 3,0 mmol/L: phải dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu 3. Nguy cơ tim mạch trung bình 3.1. Định nghĩa: Các BN trẻ tuổi (BN ĐTĐ typ 1 < 35 tuổi, BN ĐTĐ typ 2 < 50 tuổi) bị ĐTĐ < 10 năm, không có yếu tố nguy cơ tim mạch khác. 3.2. Điều trị: – Đã thay đổi lối sống, mà LDL-C từ 2,6 – < 4,9 mmol/L: cân nhắc dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu – LDL-C ≥ 4,9 mmol/L: Phải dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu 4. Nguy cơ tim mạch thấp: 4.1. Định nghĩa: Không có các yếu tố nguy cơ nào kể trên 4.2. Điều trị: – Đã thay đổi lối sống, mà LDL-C từ 3,0 – 4,9 mmol/L: Cân nhắc dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu – LDL-C > 4,9 mmol/L: Phải dùng thuốc điều trị rối loạn Lipid máu Ths.Bác sĩ Phùng Văn Dũng

HIỂU ĐỂ ĐIỀU TRỊ TỐT BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Đái tháo đường là suy giảm bài tiết insulin và nồng độ kháng insulin ngoại vi thay đổi dẫn đến tăng đường huyết. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu nhiều và nhìn mờ. Biến chứng muộn gồm bệnh mạch máu, bệnh thần kinh ngoại vi, bệnh thận và dễ nhiễm khuẩn. Chẩn đoán bằng định lượng glucose huyết tương… Đái tháo đường là bệnh gì: – Glucose máu là nguồn năng lượng chính cho các cơ quan trong cơ thể. Insulin do tụy tiết ra có tác dụng đưa glucose vào trong tế bào, và giữ nồng độ glucose máu luôn ổn định. – Đái tháo đường (ĐTĐ) là tình trạng tăng glucose máu mạn tính do thiếu insulin hoặc giảm tác dụng (đề kháng) của insulin hoặc cả hai. Bệnh thường kèm theo cả rối loạn chuyển hóa protid và lipid. Có 5 typ đái tháo đường là: ĐTĐ typ 1, chiếm khoảng 1% tổng số bệnh nhân ĐTĐ: Nguyên nhân là thiếu insulin tuyệt đối, hay gặp ở trẻ em, bệnh diễn biến nhanh với các triệu chứng rầm rộ. ĐTĐ typ 2, chiếm hơn 80% tổng số bệnh nhân ĐTĐ. Nguyên nhân do insulin bị đề kháng ở các cơ quan, bệnh diễn biến âm thầm nên thường được phát hiện muộn. ĐTĐ typ 3: là bệnh ĐTĐ thứ phát do bị viêm tụy, cắt tụy hay do dùng các thuốc làm tăng glucose máu ĐTĐ typ 4: ĐTĐ thai kỳ, thường khỏi sau khi đẻ, gặp ở khoàng 15% phụ nữ mang thai ĐTD typ 5: ĐTĐ ở người gày, suy dinh dưỡng Chẩn đoán ĐTĐ bằng cách nào: – Trường hợp điển hình, người bệnh ĐTĐ thường có triệu chứng 4 nhiều là uống nhiều, đái nhiều, ăn nhiều và gày nhiều. Tuy nhiên có nhiều bệnh nhân không có triệu chứng (giai đoạn sớm) hoặc lại được phát hiện muộn khi đã có nhiều biến chứng mạn tính như mờ mắt, tê bì chân tay, thậm chí có các biến chứng nặng như suy thận, loét chân hay đột quỵ… – Mặc dù tên bệnh là ĐTĐ tức là đái ra đường nhưng để chẩn đoán chắc chắn bệnh ĐTĐ phải dựa vào xét nghiệm máu. Có 4 cách chẩn đoán ĐTĐ là: Glucose máu lúc đói (đã nhịn ăn từ 8-14h) > 7,0 mmol/L Glucose máu bất kỳ (đói hoặc no đều được) > 11,0 mmol/L kèm theo các triệu chứng như khát, uống nhiều, tiểu nhiều, gày sút Glucose máu 2h sau làm nghiệm pháp uống 75g Glucose > 11,0 mmol/ LHbA1C > 6,5% ĐTĐ có thể gây biến chứng gì, có nguy hiểm không ? Tăng glucose máu kéo dài có thể gây ra nhiều biến chưng nguy hiểm như: – Các biến chứng mạch máu nhỏ như mù mắt, suy thận, tê bì chân tay có thể gặp ở 10% các bệnh nhân bị ĐTĐ 5 năm, 30-50% ở các bệnh nhân bị ĐTĐ trên 20 năm. – Các biến chứng mạch máu lớn như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tắc mạch chân cao gấp 2-4 lần so với người bình thường, và là nguyên nhân khiến bệnh nhân ĐTĐ chết sớm từ 6-12 năm. – Người bệnh ĐTĐ cũng dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng, phổ biến là viêm phổi, lao phổi, nhiễm trùng răng, nhiễm trùng tiết niệu… và đáng sợ nhất là nhiễm trùng bàn chân làm tăng 15-30 lần nguy cơ bị cắt cụt chân – Ngoài ra, các bệnh nhân ĐTĐ typ 2 thường có các bệnh đi kèm như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, gút… – Chú ý là các bệnh nhân ĐTĐ typ 2 do được phát hiện muộn nên đã có thể bị các biến chứng ngay thời điểm được chẩn đoán ĐTĐ. Điều trị ĐTĐ typ 2 bằng cách nào ? Điều trị kiểm soát glucose máu ở người bệnh ĐTĐ bằng 3 biện pháp chính, có tầm quan trọng như nhau là: 4.1. Chế độ ăn, với một số nguyên tắc là: Lựa chọn các thực phầm có chỉ số đường huyết thấp (không làm tăng nhiều glucose máu sau ăn), nhiều chất xơ, nhiều rau. Có thể ăn rau trước ăn cơm. Thịt cá có thể ăn như bình thường. Lưu ý là không nên ăn quá no, bữa chính ăn vừa phải và có thể ăn thêm 1-2 bữa phụ vào giữa buổi chiều hoặc trước lúc đi ngủ. 4.2. Tập thể dục cường độ vừa phải (đi bộ nhanh, đạp xe…) khoảng 30 phút/ngày và ít nhất 5 ngày/ tuần. Muốn tập nặng (như chạy, cử tạ…) phải xin ý kiến Bác sỹ. Uống đủ nước khi tập. Không tập khi glucose máu < 5,5 mmol/L hoặc > 14,5 mmol/L 4.3. Sử dụng thuốc làm giảm đường máu ngay khi được chẩn đoán ĐTĐ. Có thể là 1 hoặc nhiều loại thuốc cùng lúc. Các nhóm thuốc chính là: – Thuốc Sulfonylurea (như Gliclazide, Glimepiride) có tác dụng kích thích tụy tiết insulin, uống vào trước bữa ăn – Thuốc Metformin có tác dụng làm giảm đề kháng insulin, uống vào sau bữa ăn – Thuốc Gliptin (Sitagliptin, Linagliptin) có cả tác dụng kích thích tiết insulin và làm giảm đề kháng insulin, uống vào trước hoặc sau ăn đều được. – Thuốc Flozine (Empagliflozin, Dapagliflozin) có tác dụng làm giảm glucose máu bằng cách ngăn cản tái hấp thu glucose ở thận. – Thuốc kết hợp 2 loại thuốc trong 1 viên thuốc, ví dụ kết hợp Metformin với Sulfonylurea, hay Metformin với Gliptin. – Insulin tiêm dưới da, có thể tiêm một hoặc nhiều mũi (3-4 mũi) mỗi ngày. Có thể phối hợp insulin với các thuốc uống. – Điểm lưu ý là: Các loại thuốc lá, thuốc nam, thuốc tễ chưa được cấp phép để điều trị bệnh ĐTĐ Các Bác sỹ có thể chọn loại

Đấu thầu

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám