BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Hoạt Động Nghiên Cứu

Tư Vấn Sức Khoẻ

Nhận diện sớm bệnh Alzheimer và cách phòng ngừa hiệu quả

Azheimer là nguyên nhân phổ biến nhất gây sa sút trí tuệ ở người cao tuổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trí nhớ, ngôn ngữ và hành vi. Nhận biết sớm triệu chứng và chủ động phòng ngừa là cách hiệu quả để làm chậm tiến triển bệnh và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các giai đoạn của bệnh Alzheimer  Bệnh Alzheimer là một trong những nguyên nhân phổ biến gây chứng suy giảm trí nhớ, chiếm khoảng 60 – 80% các trường hợp. Đây là một bệnh lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến não bộ, tác động đến trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ và hành vi của người bệnh. Nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer tăng dần theo độ tuổi, đặc biệt từ sau 65 tuổi. Để hiểu rõ hơn về diễn tiến của bệnh, dưới đây là mô tả cụ thể các giai đoạn của Alzheimer: Giai đoạn nhẹ Ở giai đoạn này, người bệnh chỉ gặp một số khó khăn trong việc quản lý cuộc sống hàng ngày, nhưng vẫn có thể sống độc lập. Tuy nhiên, hành vi, cảm xúc và tâm trạng có thể bắt đầu thay đổi. Lúc này người bệnh và gia đình nên dành thời gian tìm hiểu về bệnh. Vai trò của người chăm sóc rất quan trọng: hỗ trợ người bệnh thông qua trò chuyện, tư vấn nhẹ nhàng và đồng cảm. Người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc hoàn thành các hoạt động hàng ngày như lái xe, nấu ăn… vì vậy cần sự hỗ trợ hoặc thay thế từ người thân. Giai đoạn vừa Ở giai đoạn trung bình, các biểu hiện suy giảm trí nhớ và chức năng nhận thức trở nên rõ rệt hơn: Suy giảm trí nhớ nghiêm trọng: Quên cả hiện tại lẫn quá khứ. Rối loạn ngôn ngữ: Nói không trôi chảy, sai ngữ pháp. Rối loạn tri giác: Mất định hướng, có thể lạc ngay cả trong môi trường quen thuộc. Rối loạn hành vi: Không thực hiện đúng các công việc thường ngày như nấu ăn, mặc quần áo, mua sắm… Người bệnh dần mất khả năng tự lập. Dù vẫn có thể ăn uống, tắm rửa hoặc thực hiện một số việc đơn giản, nhưng thường cần được nhắc nhở, hỗ trợ. Ngoài ra, họ dễ bị lạc đường, quên tắt bếp, làm việc lặp đi lặp lại như lục lọi ngăn kéo hoặc đi lại vô thức. Những hành vi bất thường như tức giận, nghi ngờ, thậm chí là hung hăng có thể xảy ra – do những tổn thương nhận thức của bệnh gây ra. Ở giai đoạn này, người bệnh thường khó diễn đạt suy nghĩ và hiểu người khác, đồng thời nhầm lẫn giữa quá khứ và hiện tại. Việc chăm sóc có thể đòi hỏi người thân phải dành toàn bộ thời gian để hỗ trợ. Giai đoạn nặng Đây là giai đoạn bệnh tiến triển nặng, người bệnh cần được chăm sóc toàn diện. Các vấn đề về lời nói và ngôn ngữ khiến giao tiếp gần như không thể. Họ không còn tự thực hiện các hoạt động cơ bản như ăn uống, vệ sinh cá nhân và thường xuyên nhầm lẫn người thân quen. Khả năng kiểm soát cơ thể và phối hợp vận động cũng suy giảm đáng kể. Ở giai đoạn này, việc chăm sóc tại nhà có thể không đủ đáp ứng nhu cầu y tế và tinh thần. Gia đình nên cân nhắc kết hợp chăm sóc chuyên nghiệp tại các cơ sở điều dưỡng hoặc trung tâm chuyên biệt dành cho người sa sút trí tuệ. Ngăn ngừa bệnh Alzheimer thế nào? Bệnh Alzheimer là hệ quả của quá trình lão hóa tự nhiên của não bộ. Tuy nhiên, thời điểm khởi phát và mức độ trầm trọng có thể bị chi phối bởi lối sống, chế độ dinh dưỡng và các yếu tố sức khoẻ. Một số biện pháp phòng ngừa và giảm nguy cơ bao gồm: Ăn uống khoa học Duy trì chế độ ăn giàu dinh dưỡng, cân bằng các nhóm chất, ưu tiên rau củ, trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt, dầu thực vật, các chế phẩm từ sữa… Hạn chế thịt đỏ, đường tinh luyện và các chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá… Phòng ngừa bệnh tim mạch Khoảng 80% người bị Alzheimer có liên quan đến các bệnh lý tim mạch. Việc kiểm soát huyết áp, mỡ máu, tiểu đường… góp phần ngăn ngừa và làm chậm tiến triển bệnh. Tập thể dục đều đặn Tập luyện giúp cải thiện tuần hoàn máu lên não, giảm căng thẳng và làm chậm sự thoái hóa tế bào thần kinh. Người bệnh nên chọn hình thức vận động phù hợp với thể trạng và tuổi tác. Tránh chấn thương vùng đầu Chấn thương đầu, đặc biệt dẫn tới bất tỉnh, có liên quan đến nguy cơ cao phát triển Alzheimer. Do đó, cần thận trọng khi chơi thể thao hoặc tham gia giao thông. Ngủ đủ và đúng giờ Rối loạn giấc ngủ ảnh hưởng đến 25% – 50% người mắc Alzheimer, tùy theo giai đoạn. Giấc ngủ sâu, đúng giờ không chỉ tốt cho sức khỏe tổng thể mà còn góp phần bảo vệ chức năng não bộ. Alzheimer là căn bệnh tiến triển âm thầm nhưng tác động sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia đình. Việc phát hiện sớm, hiểu rõ từng giai đoạn bệnh, chăm sóc đúng cách và duy trì lối sống lành mạnh là chìa khóa giúp làm chậm quá trình sa sút trí tuệ, bảo vệ sức khỏe tinh thần và thể chất cho người cao tuổi. https://suckhoedoisong.vn/nhan-dien-som-benh-alzheimer-va-cach-phong-ngua-hieu-qua-169251022075154002.htm

Điều gì xảy ra khi thường xuyên mất ngủ?

Mất ngủ, thiếu ngủ hay chất lượng giấc ngủ kém ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trên cơ thể từ thần kinh, tim mạch đến gan, thận. Mất ngủ là tình trạng không thể ngủ suốt đêm, khó vào giấc, trằn trọc, dễ tỉnh giấc. Mọi người đều có nguy cơ mất ngủ nhưng người lớn tuổi, căng thẳng, sử dụng caffein muộn, mắc bệnh nền có nguy cơ cao hơn. Người bị mất ngủ xảy ra ít nhất ba lần một tuần trong hơn ba tháng có khả năng mất ngủ mạn tính. Nên đi khám để xác định nguyên nhân, điều trị kịp thời, tránh biến chứng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Hệ thần kinh trung ương Giấc ngủ ngon cần thiết để duy trì hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Mất ngủ mạn tính có thể làm gián đoạn cách cơ thể gửi và xử lý thông tin khiến người bệnh thấy khó tập trung chú ý, không thể làm việc và học tập hiệu quả. Các tín hiệu mà cơ thể gửi đi bị chậm so với bình thường, làm giảm khả năng phối hợp và tăng nguy cơ tai nạn. Thiếu ngủ cũng ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tinh thần và trạng thái cảm xúc. Người mất ngủ có xu hướng thiếu kiên nhẫn hơn, dễ thay đổi tâm trạng, ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định và khả năng sáng tạo. Tình trạng ngủ gật vào ban ngày do mất ngủ rất nguy hiểm, nhất là khi đang điều khiển giao thông, làm việc ngoài trời ở khu vực nguy hiểm. Theo thời gian, chứng mất ngủ mạn tính có thể dẫn đến rối loạn tâm trạng như trầm cảm hoặc lo âu. Hệ thống miễn dịch Khi ngủ, hệ thống miễn dịch sản xuất các chất bảo vệ, chống nhiễm trùng như kháng thể và cytokine. Hệ thống sử dụng các chất này để chống lại các tác nhân xâm nhập từ bên ngoài như vi khuẩn và virus. Một số cytokine có khả năng hỗ trợ hệ thống miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn để bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật. Thiếu ngủ ngăn hệ thống miễn dịch xây dựng, từ đó khó khăn khi chống lại các tác nhân xâm nhập, thời gian phục hồi sau khi ốm chậm hơn. Chất lượng giấc ngủ kém còn là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính như bệnh tim, tiểu đường. Hệ hô hấp Mối quan hệ giữa giấc ngủ và hệ hô hấp diễn ra theo cả hai hướng. Rối loạn hô hấp vào ban đêm như ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) có thể làm gián đoạn giấc ngủ, giảm chất lượng. Tình trạng thiếu ngủ, mất ngủ khiến nhiễm trùng đường hô hấp như cảm lạnh thông thường, cúm. Thiếu ngủ cũng có thể làm cho các bệnh về đường hô hấp hiện có như bệnh phổi mạn tính, hen suyễn trầm trọng hơn. Hệ tiêu hóa Giấc ngủ ảnh hưởng đến hoạt động của hai loại hormone leptin và ghrelin, kiểm soát cảm giác đói và no. Nếu không ngủ đủ giấc, não làm giảm leptin và tăng ghrelin kích thích sự thèm ăn. Thiếu ngủ cũng có thể khiến bạn cảm thấy quá mệt mỏi, lười vận động. Theo thời gian, giảm hoạt động thể chất có thể gây tăng cân do không đốt cháy đủ calo và không phát triển khối lượng cơ. Hệ nội tiết Quá trình sản xuất hormone diễn ra trong giấc ngủ. Mất ngủ mạn tính có thể ảnh hưởng đến các hormone testosterone kiểm soát ham muốn tình dục của nam giới. Những hormone này giúp cơ thể xây dựng khối lượng cơ và phục hồi tế bào và mô, bên cạnh các chức năng tăng trưởng khác. Để sản xuất testosterone, nam giới cần ít nhất ba giờ ngủ không bị gián đoạn. Thức giấc giữa đêm có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất hormone này. Anh Chi (Theo WebMD, Healthline) https://vnexpress.net/dieu-gi-xay-ra-khi-thuong-xuyen-mat-ngu-4912450.html

Phẫu thuật tạo hình dị tật ngón tay tại Bệnh Viện Bắc Thăng Long

Trong thời gian qua, Khoa Chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Bắc Thăng Long đã tiếp nhận và điều trị thành công nhiều trường hợp dị tật thừa ngón, dính ngón tay bẩm sinh cũng như các trường hợp dị tật bẩm sinh bất thường hệ vận động khác ở chi thể của trẻ em. Trẻ được điều trị cắt ngón thừa, tạo hình lại hình dáng và chức năng bình thường của bàn tay, chỉ sau 1 lần phẫu thuật. Đây là một dị tật dễ phát hiện, không phải là hiếm gặp, nên những kiến thức về dị tật, phương pháp điều trị, khi nào cần phẫu thuật cắt ngón thừa, tạo hình lại ngón, lựa chọn thời điểm phẫu thuật cần được các phụ huynh bệnh nhi quan tâm và có những hiểu biết cơ bản. Dị tật thừa ngón (polydactyly) còn được biết đến là dị tật bẩm sinh thừa ngón chân hay ngón tay do di truyền hay gặp, đặc trưng bởi việc có các ngón tay hoặc ngón chân phụ, với nhiều kiểu hình bất thường khác nhau. Dị tật này có thể là một phần của một hội chứng dị tật bẩm sinh kèm theo các dị tật khác hoặc là một dị tật xuất hiện đơn độc. Mặc dù dị tật không đe dọa đến tính mạng nhưng lại là dấu hiệu chỉ điểm của một số dị tật nghiêm trọng khác và gây giảm chất lượng cuộc sống. Các ngón thừa thường là một mô nhỏ, có xương mà không có khớp, rất hiếm khi có đủ các chức năng của một ngón tay bình thường. Hầu hết dị tật ngón được gây ra bởi sự khiếm khuyết di truyền trong gene dẫn đến sự khiếm khuyết xảy ra trong sự phát triển chi trước – sau.   Hình ảnh dính ngón tay trước khi mổ Hình ảnh dính ngón tay sau khi mổ PHÂN LOẠI: Được chia làm 3 loại: Trước trục (Preaxial polydactyly): ngón cái sinh đôi Trung tâm (central polydactyly): hiếm gặp, thừa các ngón ở giữa (ngón trỏ, giữa, nhẫn). Sau trục (postaxial polydactyly): ngón út sinh đôi. Trong đó, Type A: là các trường hợp ngón thừa phát triển gần như hoặc như ngón bình thường Type B: ngón thừa phát triển kém có thể chỉ là một nhú nhỏ hoặc thừa ngón nhỏ có cuống ĐIỀU TRỊ: 1. Nguyên tắc chung: cắt bỏ ngón thừa, giữ lại ngón có chức năng tốt hơn và bảo tồn tối đa, hài hòa cả giải phẫu, chức năng và thẩm mỹ. 2. Đánh giá trước mổ: Cần phải chụp X Quang bàn tay, bàn chân và thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng để có thể phân loại ngón thừa, mức độ thiểu sản của mỗi ngón, độ vững của mỗi khớp, chức năng vận động của ngón… để lựa chọn phương pháp phẫu thuật. Đối với từng phân loại sẽ có phương pháp phẫu thuật phù hợp. Thông thường, sẽ định hướng điều trị theo phân loại: Type A: cần phải điều trị phẫu thuật cắt bỏ Type B: cân nhắc giữa phẫu thuật hoặc thắt gốc ngón (bằng chỉ khâu hoặc clip kẹp mạch) làm cho ngón bị hoại tử và sẽ tự rụng sau một thời gian. Và biến chứng hay gặp của những trường hợp này là hay để lại những nhú thịt thừa sau khi ngón thừa rụng gây mất thẩm mỹ đôi khi cần phải phẫu thuật để cắt bỏ. Với đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, chuyên sâu trong phẫu thuật tạo hình chi thể – đặc biệt là xử lý các dị tật bàn tay, chúng tôi áp dụng kỹ thuật hiện đại, an toàn, ít xâm lấn, giúp phục hồi nhanh chóng và đảm bảo thẩm mỹ tối ưu. Hãy để đôi bàn tay nhỏ nhắn của trẻ được tự do khám phá thế giới một cách trọn vẹn nhất! 📍Đặt lịch ngay tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình – Bệnh viện Bắc Thăng Long 📞 Hotline: https://benhvienbacthanglong.org.vn/ 🌟 Thẩm mỹ – An toàn – Tận tâm – Vì tương lai của bé yêu!

48 tuổi đã đột quỵ 3 lần: Tất cả đều do 1 loại đồ uống quen thuộc với nhiều người Việt

Sáng sớm, sau một đêm ngủ dậy, anh Lê Văn Ch. (48 tuổi, trú tại Hà Nội) bất ngờ hoa mắt, chóng mặt, đau đầu dữ dội rồi nôn ói. Người nhà lập tức đưa anh đến trung tâm y tế gần nhà. Nhận thấy dấu hiệu bất thường, các bác sĩ nhanh chóng chuyển anh đến Bệnh viện Thanh Nhàn. Tại Bệnh viện Thanh Nhàn, anh Ch. được chẩn đoán đột quỵ do xuất huyết não. Rất may anh Ch. được chuyển tới viện sớm và được can thiệp kịp thời. Theo anh Ch., đây là lần thứ ba anh phải nhập viện cấp cứu vì đột quỵ và cả ba lần đều có điểm chung: sau khi uống rượu. Lần đột quỵ đầu tiên của anh Ch. xảy ra cách đây 4 năm. Lần đó, anh cũng bị choáng váng, mất cảm giác sau khi uống rượu. Một năm sau đó, anh tiếp tục bị đột quỵ lần hai cũng trong hoàn cảnh tương tự. “Tôi uống rượu hàng ngày, mỗi ngày chừng nửa lít, hôm nào trời nóng thì uống thêm 1 – 2 cốc cho mát”, anh Ch. chia sẻ. Trải qua ba lần cận kề cái chết, anh Ch. bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc từ bỏ thói quen uống rượu: “Tôi sẽ cố gắng cai. Tôi muốn sống lâu hơn vì con cái tôi còn nhỏ”. Hiện, anh Ch. đã ở nhà phụ vợ bán hàng, tạm rời xa công việc nặng nhọc để giữ gìn sức khỏe. Anh Ch. đang được khám lại sau khi được can thiệp đột quỵ (ảnh N.M). Rượu bia làm tăng nguy cơ đột quỵ Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia tiêu thụ rượu bia hàng đầu thế giới. Mỗi người Việt trên 15 tuổi tiêu thụ trung bình 8,3 lít cồn nguyên chất mỗi năm – tương đương khoảng 170 lít bia. Việt Nam hiện đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 3 châu Á về mức tiêu thụ rượu bia bình quân đầu người. Riêng về bia, Việt Nam nằm trong top 10 nước tiêu thụ nhiều nhất toàn cầu với hơn 3,8 triệu kilô lít/năm, chiếm khoảng 2,2% sản lượng thế giới. Bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (cơ sở 3) cho hay, nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa tiêu thụ rượu bia và đột quỵ. Rượu có thể tác động trực tiếp lên não hoặc gián tiếp làm tăng các yếu tố nguy cơ như huyết áp, mỡ máu, đường huyết, tổn thương mạch máu và nội tạng. Đáng lưu ý, đột quỵ không còn là căn bệnh của người cao tuổi. Hiện nay, tỷ lệ người trẻ bị đột quỵ đang tăng lên, chiếm khoảng 10–15% tổng số ca. Một nghiên cứu cho thấy, 18,2% bệnh nhân đột quỵ dưới 45 tuổi có tiền sử uống rượu thường xuyên, bác sĩ Vũ thông tin. Thống kê cũng cho thấy, những người uống trung bình hơn 2 ly rượu mỗi ngày tăng nguy cơ đột quỵ lên tới 34% so với người không uống hoặc uống ít. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, mỗi người nên hạn chế tối đa rượu bia. Cụ thể, nam giới trưởng thành uống không quá 2 đơn vị cồn/ngày; Nữ giới trưởng thành uống không quá 1 đơn vị cồn/ngày. Một đơn vị cồn tương đương 30ml rượu mạnh, 100ml rượu vang hoặc 330ml bia. Để phòng ngừa đột quỵ, bác sĩ Vũ cho biết, bên cạnh kiểm soát bệnh nền như: tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu…, duy trì lối sống lành mạnh là yếu tố quan trọng. Theo đó, mọi người nên: – Ăn nhiều rau xanh, trái cây tươi, giảm muối và chất béo xấu. – Tăng vận động thể chất (ít nhất 30 phút/ngày, 5 ngày/tuần). – Tránh stress, giữ tinh thần ổn định. – Ngưng hút thuốc, hạn chế rượu bia. https://soha.vn/48-tuoi-da-dot-quy-3-lan-tat-ca-deu-do-1-loai-do-uong-quen-thuoc-voi-nhieu-nguoi-viet-198250708182812518.htm

Căn bệnh gây mù lòa không đau, không đỏ, không ngứa

Không đau đớn, không có biểu hiện rõ ràng, bệnh glaucoma âm thầm làm tổn thương dây thần kinh thị giác và có thể dẫn đến mù lòa. Glaucoma (hay còn gọi là cườm nước) là bệnh lý về mắt gây tổn thương dây thần kinh thị giác. Khi dây thần kinh này bị hư hại, thị lực sẽ dần suy giảm và nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời, bệnh có thể dẫn đến mù lòa. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), glaucoma là nguyên nhân gây mù lòa phổ biến thứ hai thế giới, chỉ sau đục thủy tinh thể và là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù lòa không hồi phục. Tính đến năm 2020, căn bệnh này đã ảnh hưởng tới gần 80 triệu người 40-80 tuổi. Tổn thương do cườm thường diễn ra âm thầm, không gây đau đớn hay dấu hiệu rõ ràng ban đầu. Nhiều người chỉ phát hiện ra bệnh khi thị lực đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì sao bạn có thể mắc glaucoma? Theo Viện Hàn lâm Nhãn khoa Mỹ (AAO), bên trong mắt luôn sản sinh một lượng dịch trong suốt gọi là dịch thể nước, giúp nuôi dưỡng các mô và duy trì hình dạng mắt. Bình thường, lượng dịch này sẽ được thoát ra ngoài qua một “góc thoát” giữa giác mạc và mống mắt, giúp duy trì áp lực mắt (nhãn áp) ở mức ổn định. Tuy nhiên, nếu hệ thống thoát dịch hoạt động không hiệu quả hoặc bị tắc nghẽn, dịch bị ứ đọng, khiến nhãn áp tăng cao. Áp lực này dồn lên dây thần kinh thị giác, từng sợi thần kinh nhỏ dần sẽ bị phá hủy và người bệnh bắt đầu xuất hiện các điểm mù trong tầm nhìn. Khi phần lớn sợi thần kinh bị tổn thương, thị lực sẽ mất đi vĩnh viễn. Các dạng glaucoma thường gặp Thông thường, người bệnh phải đối mặt với 5 dạng cườm nước chính: Glaucoma góc mở: Là dạng phổ biến nhất. Bệnh tiến triển âm thầm, không gây đau, không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Tầm nhìn bên (ngoại vi) bắt đầu giảm, nhưng người bệnh khó nhận ra cho đến khi bệnh đã khá nặng. Glaucoma góc đóng (góc hẹp): Xảy ra khi mống mắt trượt về phía trước, làm bít tắc góc thoát dịch. Điều này khiến nhãn áp tăng nhanh, gây cơn đau dữ dội, buồn nôn, đỏ mắt, nhìn mờ, thấy quầng sáng quanh đèn. Đây là tình trạng khẩn cấp và cần được xử trí ngay để tránh mù lòa. Glaucoma áp lực bình thường: Nhãn áp không cao nhưng dây thần kinh thị giác vẫn bị tổn thương, có thể do giảm tưới máu hoặc các yếu tố nhạy cảm khác. Glaucoma sắc tố: Các hạt sắc tố bong ra từ mống mắt và tích tụ tại góc thoát dịch, cản trở quá trình dẫn lưu dịch. Người bệnh có thể thấy mờ mắt, nhìn quầng sáng, nhất là sau vận động mạnh. Glaucoma ở trẻ em: Một số trẻ có thể mắc bệnh bẩm sinh hoặc trong những năm đầu đời. Triệu chứng bao gồm mắt mờ đục, chảy nước mắt dù không khóc, nhạy sáng, hay chớp mắt, kèm cận thị tiến triển nhanh. Dấu hiệu nhận biết Nhiều trường hợp glaucoma không biểu hiện bất thường trong thời gian đầu. Tuy nhiên, theo Mayo Clinic, bạn cần chú ý nếu xuất hiện các dấu hiệu sau: Thị lực mờ dần, đặc biệt ở vùng nhìn bên Nhìn thấy quầng sáng hoặc vòng màu quanh ánh đèn Đau nhức mắt, đau đầu kéo dài Mắt đỏ, cảm giác nặng hoặc căng trong mắt Buồn nôn, nôn (trong cơn cấp) Nếu các triệu chứng xuất hiện đột ngột, đặc biệt là đau mắt dữ dội kèm nhìn mờ, cần đến bệnh viện ngay vì đây có thể là dấu hiệu của cơn glaucoma cấp tính, cần được cấp cứu kịp thời để cứu thị lực. Những ai dễ mắc glaucoma? Nguy cơ mắc cườm nước tăng lên theo tuổi, đặc biệt ở những người từ 40 tuổi trở lên. Nếu trong gia đình từng có người bị cườm mắt, bạn cũng dễ bị ảnh hưởng do yếu tố di truyền. Ngoài ra, những người mắc các tật khúc xạ nặng như cận thị hoặc viễn thị, từng chấn thương mắt hay đã trải qua phẫu thuật mắt cũng thuộc nhóm nguy cơ. Người làm dụng thuốc nhỏ mắt chứa corticoid cũng có nguy cơ bị cườm mắt. Ảnh: Adobe Stock. Cuốn sách “Siêu tổ chức con người” của tác giả Rodney Dietert đem tới cho bạn đọc những kiến thức hữu ích để bảo vệ hàng rào đề kháng tự nhiên của cơ thể và xây dựng lối sống lành mạnh. Việc sử dụng thuốc corticoid kéo dài, đặc biệt là dạng nhỏ mắt, có thể ảnh hưởng đến áp lực nội nhãn và góp phần làm tăng khả năng mắc bệnh. Glaucoma cũng dễ xuất hiện hơn ở những người có bệnh lý mạn tính như tiểu đường, cao huyết áp, đau nửa đầu. Glaucoma có chữa khỏi không? Tổn thương do cườm nước gây ra không thể hồi phục, nhưng nếu phát hiện sớm và điều trị đúng cách, bệnh có thể kiểm soát được và làm chậm quá trình mất thị lực. Các phương pháp điều trị gồm dùng thuốc nhỏ mắt, laser và phẫu thuật. Dù việc điều trị có thể cải thiện được tình trạng bệnh, tuy nhiên, cách tốt nhất vẫn là ngăn ngừa nguy cơ mắc bệnh ngay từ đầu: Khám mắt định kỳ theo độ tuổi hoặc khuyến cáo riêng nếu bạn thuộc nhóm nguy cơ cao Hiểu về tiền sử bệnh lý trong gia đình, đặc biệt nếu người thân từng bị cườm nước Bảo vệ mắt khi chơi thể thao hoặc làm việc trong môi trường nguy hiểm

Bệnh sốt vàng và những điều cần lưu ý

Bệnh sốt vàng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus, gây bệnh cho người và động vật linh trưởng, bệnh chủ yếu lây truyền qua muỗi Aedes (muỗi vằn), phổ biến ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ và Châu Phi (bệnh chưa từng gặp ở Châu Á và các châu lục khác, trừ một số ca nghi ngờ do du nhập từ vùng lưu hành). Bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như suy đa tạng và tử vong. Tuy nhiên có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc xin và các biện pháp phòng muỗi đốt. Vắc xin phòng bệnh sốt vàng. Người bị mắc bệnh thường biểu hiện sốt cao đột ngột (39-40°C), ớn lạnh, nhức đầu, đau cơ, mạch nhanh ban đầu sau đó có thể chậm lại. Khoảng 15% người bệnh có diễn biến nặng với triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc rầm rộ và biểu hiện rối loạn chức năng nhiều cơ quan, người bệnh có thể xuất hiện vàng da, vàng mắt, đau vùng thượng vị, nôn trớ, thiểu niệu, chấm xuất huyết, lú lẫn, hôn mê. Có thể có các biến chứng nặng như suy đa tạng, trụy tim mạch, sốc nhiễm khuẩn, tử vong. Bệnh sốt vàng hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị hỗ trợ và giảm triệu chứng. Người bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối, hạ sốt, bù dịch, điều chỉnh rối loạn điện giải, đảm bảo dinh dưỡng. Hạn chế sử dụng các thuốc chuyển hóa qua gan và gây độc cho gan. Các trường hợp nặng cần được chăm sóc tích cực tại các cơ sở y tế chuyên sâu. Tiêm phòng vắc xin sốt vàng hiện nay là biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ bản thân và cộng đồng. Sốt vàng là bệnh lưu hành ở khu vực Châu Phi, Nam Mỹ, do vậy cần tiêm phòng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa khi đến các vùng có nguy cơ cao. Những đối tượng cần chủ động tiêm phòng gồm: người sống, người làm việc hay khách du lịch đến khu vực có lưu hành bệnh. Các quốc gia có bệnh sốt vàng lưu hành thường có yêu cầu khách đến thăm quan, làm việc cần được tiêm tối thiểu 10 ngày trước khi nhập cảnh. Người dân có thể tiêm vắc xin tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh/thành phố hoặc một số điểm tiêm chủng dịch vụ. Khi đến các quốc gia có dịch bệnh sốt vàng lưu hành, chúng ta cần đề phòng muỗi đốt bằng cách mặc quần áo dài tay, sử dụng kem chống muỗi, lưới chống muỗi, thuốc diệt muỗi, tránh hoạt động ngoài trời vào thời điểm muỗi hoạt động mạnh. https://soyte.hanoi.gov.vn/phong-chong-dich-benh/-/asset_publisher/4IVkx5Jltnbg/content/benh-sot-vang-va-nhung-ieu-can-luu-y

Mỹ phê duyệt thuốc ‘tên lửa dẫn đường’ điều trị ung thư phổi

Mỹ phê duyệt thuốc Datroway thuộc nhóm liên hợp kháng thể còn gọi “tên lửa dẫn đường”, do AstraZeneca và Daiichi Sankyo hợp tác phát triển điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Quyết định được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đưa ra ngày 23/6. Datroway là liệu pháp đầu tiên tại Mỹ được chấp thuận sử dụng cho những bệnh nhân ung thư phổi trước đó điều trị bằng các liệu pháp khác nhưng không hiệu quả. Động thái của FDA mở rộng cơ hội tiếp cận điều trị ung thư cho những người bị ung thư phổi. Datroway thuộc nhóm thuốc liên hợp kháng thể (antibody-drug conjugates), thường được gọi là “tên lửa dẫn đường” do có khả năng tấn công chính xác vào tế bào ung thư trong khi giữ nguyên các tế bào khỏe mạnh. Cách tiếp cận này khác biệt với hóa trị truyền thống. Thuốc nhắm vào protein TROP2 có trên bề mặt tế bào khối u, vốn xuất hiện trong nhiều loại ung thư. Trước đó, Datroway đã được phê duyệt để điều trị một dạng ung thư vú. “Việc phê duyệt lần đầu cho Datroway trong điều trị ung thư phổi cung cấp một lựa chọn rất cần thiết cho những bệnh nhân ung thư phổi đột biến EGFR giai đoạn tiến triển, những người đã kháng lại với các phương pháp điều trị trước đó, bất kể đột biến gốc là gì”, Dave Fredrickson, giám đốc điều hành nhóm nghiên cứu ung thư của AstraZeneca, cho biết. Minh họa khối u ung thư phát triển trong phổi trái bệnh nhân. Ảnh: Cure AstraZeneca và Daiichi Sankyo bắt đầu hợp tác từ nhiều năm trước trong việc phát triển các liệu pháp điều trị ung thư. Sản phẩm đầu tiên họ đồng phát triển là Enhertu. Đến năm 2020, hai bên ký thỏa thuận hợp tác để phát triển và thương mại hóa Datroway, với giá trị thỏa thuận lên tới 6 tỷ USD. Sau khi Datroway được phê duyệt tại Mỹ, AstraZeneca cho biết sẽ chi 45 triệu USD cho Daiichi như một cột mốc quan trọng trong thỏa thuận hợp tác giữa hai bên. Ung thư phổi hiện là một trong những bệnh ung thư phổ biến và gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm thế giới ghi nhận khoảng 2,2 triệu ca ung thư phổi mới và gần 1,8 triệu ca tử vong, chiếm 18% số ca tử vong do ung thư. Tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn muộn chỉ đạt khoảng 10-20%. Ung thư phổi được chia thành hai dạng chính: ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC, chiếm khoảng 85%) và tế bào nhỏ (SCLC). NSCLC thường liên quan đến các đột biến phân tử như EGFR, ALK, ROS1… Datroway nhắm vào protein TROP2, mở ra hướng tiếp cận mới trong điều trị những trường hợp kháng thuốc với liệu trị trước. Thục Linh (Theo Reuters) https://vnexpress.net/my-phe-duyet-thuoc-ten-lua-dan-duong-dieu-tri-ung-thu-phoi-4905753.html

Hiểu sai về bệnh béo phì có nguy cơ gây mắc nhiều bệnh nguy hiểm

Theo nghiên cứu ACTION-Vietnam, hơn 60% người béo phì cho rằng việc kiểm soát cân nặng là trách nhiệm của riêng họ và không nhận thức đúng về bệnh lý mạn tính này. Họ thường ngần ngại thảo luận với bác sĩ về cân nặng vì lo ngại bị phán xét. Những người béo phì, đặc biệt khi bệnh chưa gây ra biến chứng sức khỏe nghiêm trọng, thường trì hoãn tìm kiếm sự can thiệp y tế và chỉ bắt đầu điều trị khi các vấn đề sức khỏe phát sinh, như tiểu đường, huyết áp cao hay bệnh tim mạch. Điều này làm tăng rủi ro và khiến việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Bác sĩ Georgia Rigas cho biết bệnh béo phì ở nhiều độ tuổi khác nhau. Bên cạnh đó, sự thiếu hiểu biết về béo phì cũng khiến nhiều người trong xã hội có cái nhìn sai lệch. Bác sĩ Georgia Rigas, chuyên gia hàng đầu về điều trị béo phì với 25 năm kinh nghiệm lâm sàng đến từ Úc, cho biết: “Béo phì không phải là một vấn đề của thiếu ý chí hay lười biếng. Đây là một bệnh mạn tính có sự tác động của nhiều yếu tố như di truyền, môi trường, tâm lý và thói quen sống. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận về béo phì và nhìn nhận nó như một bệnh lý cần được điều trị từ sớm”. Bác sĩ Rigas cũng nhấn mạnh: “Béo phì không phải là một vấn đề đơn giản về cân nặng mà là một bệnh lý mạn tính ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể. Chúng ta cần thay đổi cách tiếp cận từ việc chỉ chú trọng vào giảm cân sang việc cải thiện sức khỏe tổng thể của bệnh nhân, giảm thiểu các nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng như bệnh tim mạch, tiểu đường và ung thư”. Béo phì hiện đang trở thành một vấn đề sức khỏe toàn cầu và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Với tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, việc nâng cao nhận thức cộng đồng và thay đổi thói quen sống là yếu tố quyết định trong việc phòng ngừa và điều trị bệnh béo phì hiệu quả. Tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Phẫu thuật Tiêu hóa, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, đồng tác giả nghiên cứu ACTION-Vietnam, đã nhấn mạnh việc nâng cao nhận thức là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong việc ngăn ngừa béo phì. GS.TS. Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ tình trạng béo phì tại Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn cho biết: “Chúng ta cần phải giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của việc duy trì một lối sống lành mạnh ngay từ khi còn nhỏ. Việc này không chỉ giúp ngăn ngừa béo phì mà còn giảm thiểu các nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính như tiểu đường, bệnh tim mạch và ung thư. Trong suốt quá trình điều trị béo phì, người bệnh cần nhận thức rằng đây là một vấn đề sức khỏe dài hạn và họ không đơn độc trong hành trình này. Đặc biệt, việc thay đổi lối sống là yếu tố cốt lõi giúp đạt được kết quả bền vững”. Để làm được điều này, một chiến lược giáo dục mạnh mẽ là cần thiết. Các chương trình truyền thông nên tập trung vào việc nâng cao nhận thức về béo phì như một bệnh lý mạn tính, thay vì chỉ là vấn đề thẩm mỹ hay thiếu ý chí. Theo bác sĩ Georgia Rigas, điều trị béo phì không chỉ là giảm cân mà là cải thiện sức khỏe tổng thể. Bà nhấn mạnh rằng việc thay đổi chế độ ăn uống và tăng cường vận động thể chất là hai yếu tố cơ bản giúp phòng ngừa và điều trị béo phì. “Một chế độ ăn uống lành mạnh với tỷ lệ phù hợp của các nhóm thực phẩm chính, kết hợp với việc tập thể dục đều đặn sẽ giúp duy trì cân nặng ổn định và ngăn ngừa các bệnh lý mạn tính”, bà Rigas chia sẻ. Ngoài ra, việc khuyến khích người dân tham gia các hoạt động thể chất như đi bộ, chạy bộ, yoga hay thể dục nhịp điệu mỗi ngày ít nhất 30 phút sẽ giúp cải thiện sức khỏe và hỗ trợ quá trình giảm cân. Điều quan trọng là các hoạt động này phải được duy trì thường xuyên và trở thành một phần của thói quen sống hàng ngày. https://baotintuc.vn/y-te/hieu-sai-ve-benh-beo-phi-co-nguy-co-gay-mac-nhieu-benh-nguy-hiem-20250621171135535.htm

Đau cổ, người phụ nữ sốc nặng khi thấy thứ nhô ra ngoài

Theo hãng tin Workpoint News, một người phụ nữ ở Thái Lan phải chịu đau đớn sau khi vô tình nuốt phải một chiếc xương cá và sau đó nó đã đâm xuyên qua da cổ. Vào ngày 16/6, chồng của nạn nhân đã chia sẻ một bài đăng trên Facebook, kèm theo một hình ảnh gây sốc cho thấy xương nhô ra từ bên cổ của người phụ nữ Ông cảnh báo mọi người nên thận trọng khi ăn cá, vì xương mắc kẹt trong cổ họng có thể trở nên tồi tệ hơn nếu dùng ngón tay đẩy sâu hơn. Người phụ nữ bị xương cá đâm xuyên qua da. Người phụ nữ được xác định là Samran Bubpha-art, 45 tuổi, người phụ nữ bị thương sau đó đã được đưa đến bệnh viện để phẫu thuật lấy phần xương ra ngoài. Chồng cô, Suriyan Bubpha-art, chia sẻ rằng vợ mình đã nuốt phải xương khi ăn súp cá nấu tại nhà. Samran đã cắn một miếng có chứa trứng cá và vô tình nuốt phải chiếc xương. Sau đó cô cảm thấy một vết cắt sắc nhọn đột ngột ở cổ họng. Theo quan niệm truyền thống, cặp đôi này đã cố nuốt thêm thức ăn để đẩy xương xuống nhưng không có tác dụng. Phần xương sắc nhọn vẫn kẹt lại. Mặc dù họ đã tìm kiếm sự trợ giúp y tế nhưng chụp X-quang vẫn không phát hiện ra chiếc xương. Tin rằng mọi chuyện đã qua một cách tự nhiên, cặp đôi trở về nhà. Hai tuần sau, Samran bị đau cổ và sưng giống như viêm tuyến giáp. Lo sợ có thể là ung thư, cặp đôi đã quay lại bệnh viện, nhưng các bác sĩ vẫn không tìm thấy gì. Các triệu chứng của cô ấy trở nên tồi tệ hơn, và cô ấy đã dán một miếng dán giảm đau. Vào ngày thứ hai, cô ấy cảm thấy một cảm giác châm chích, giống như một cái gai từ bên trong cổ. Khi gỡ miếng dán ra, cô vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy đầu xương cá nhô ra rõ ràng qua da của mình. Các bác sĩ sau đó xác nhận đây là trường hợp đầu tiên xương cá bị nuốt xuyên qua da. Samran đã hồi phục sau khi trải qua một cuộc phẫu thuật nhỏ. https://soha.vn/dau-co-nguoi-phu-nu-soc-nang-khi-thay-thu-nho-ra-ngoai-198250618125651436.htm

Huyết khối tĩnh mạch não khác đột quỵ thế nào

Huyết khối tĩnh mạch não là một bệnh lý mạch máu não hiếm gặp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghiêm trọng nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời. ThS.BS. Đinh Trung Hiếu, Trung tâm Đột Quỵ, Bệnh viện Bạch Mai, cho hay huyết khối tĩnh mạch não là tình trạng hình thành cục máu đông bên trong hệ thống tĩnh mạch của não. Các tĩnh mạch này có vai trò dẫn lưu máu từ não trở về tim. Khi cục máu đông xuất hiện, nó sẽ gây tắc nghẽn, cản trở dòng chảy của máu, dẫn đến ứ trệ tuần hoàn. Hậu quả là tăng áp lực nội sọ và có thể gây tổn thương nhu mô não. Nhiều người có thể nhầm lẫn huyết khối tĩnh mạch não với đột quỵ, tuy nhiên đây là hai bệnh lý có những điểm khác biệt căn bản. Về tần suất mắc bệnh: Đột quỵ là bệnh lý rất phổ biến, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế trên toàn cầu. Ngược lại, huyết khối tĩnh mạch não là một bệnh lý hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng 0,5-1% tổng số các trường hợp đột quỵ. Cơ chế bệnh sinh: Đột quỵ thường được chia thành hai thể chính là đột quỵ thiếu máu não (do tắc nghẽn động mạch cấp máu cho não) và đột quỵ chảy máu não (do vỡ mạch máu não). Trong khi đó, huyết khối tĩnh mạch não là tình trạng huyết khối gây tắc nghẽn hệ thống tĩnh mạch dẫn lưu máu từ não đi ra ngoài. Diễn biến bệnh: Đột quỵ thường khởi phát đột ngột, các triệu chứng xuất hiện nhanh và thường nặng ngay từ đầu. Ngược lại, huyết khối tĩnh mạch não thường có diễn biến nặng tăng dần trong vài ngày, khiến việc nhận biết sớm đôi khi gặp khó khăn. Bác sĩ Hiếu cho biết huyết khối tĩnh mạch não hình thành do cục máu đông làm tắc dòng máu tĩnh mạch, khiến áp lực trong não tăng lên. Nếu không được xử lý kịp thời, tình trạng này có thể gây tăng áp lực nội sọ, xuất huyết hoặc tổn thương não lan rộng. Khác với các yếu tố nguy cơ phổ biến của đột quỵ như tăng huyết áp, đái tháo đường, hay rối loạn mỡ máu, huyết khối tĩnh mạch não chủ yếu xảy ra ở phụ nữ mang thai, phụ nữ sau sinh (trong 6 tuần đầu), người sử dụng thuốc tránh thai liều cao kéo dài, người có nhiễm khuẩn vùng đầu-mặt-cổ (như viêm tai xương chũm, viêm xoang), bệnh nhân tự miễn (như lupus ban đỏ, hội chứng kháng phospholipid), ung thư, nhiễm Covid-19, hoặc rối loạn đông máu bẩm sinh… Triệu chứng nghi ngờ huyết khối tĩnh mạch não gồm: đau đầu, đau tăng về đêm, buồn nôn, mờ hai mắt dần, co giật, yếu liệt tay chân, giảm ý thức, lơ mơ hoặc hôn mê. Khi có các dấu hiệu này, đặc biệt ở nhóm nguy cơ cao nêu trên, người bệnh cần đến cơ sở y tế chuyên khoa thần kinh hoặc đột quỵ để được chẩn đoán và xử trí sớm, theo khuyến cáo của bác sĩ Hiếu. Chẩn đoán sớm bệnh thường khó vì triệu chứng diễn tiến chậm và không đặc hiệu. Dò tìm chính xác cần dựa vào các kỹ thuật hình ảnh như chụp CT hoặc MRI sọ não, giúp phát hiện cục máu đông và đánh giá mức độ tổn thương não. Điều trị chủ yếu là dùng thuốc chống đông để làm tan huyết khối, khôi phục dòng máu và phòng biến chứng. Giai đoạn đầu, bệnh nhân thường được tiêm thuốc chống đông, sau đó chuyển sang dạng uống để duy trì. Với trường hợp nặng, khi huyết khối lớn hoặc có xuất huyết đe dọa tính mạng, bác sĩ có thể chỉ định phẫu thuật mở sọ giải áp hoặc can thiệp lấy huyết khối qua mạch máu. Lựa chọn thuốc và thời gian điều trị sẽ tùy vào từng nguyên nhân và yếu tố nguy cơ cá nhân. Người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối hướng dẫn của bác sĩ. Bác sĩ Hiếu khuyên việc phát hiện và điều trị huyết khối tĩnh mạch não sớm quyết định tiên lượng bệnh. Phần lớn bệnh nhân được can thiệp kịp thời có thể hồi phục hoàn toàn hoặc ít di chứng. Ngược lại, nếu nhập viện muộn, bệnh nặng với tổn thương não hoặc xuất huyết lớn, nguy cơ tử vong và tàn phế sẽ rất cao. https://vnexpress.net/suc-khoe-cam-nang-huyet-khoi-tinh-mach-nao-khac-dot-quy-the-nao-4896574.html

Hút mỡ – phẫu thuật làm đẹp dễ tai biến chết người

Hút mỡ là phẫu thuật nguy hiểm nhất trong các loại hình mổ thẩm mỹ, có thể gây sốc thuốc, sốc phản vệ, thuyên tắc mỡ dẫn đến tử vong nếu không xử trí kịp thời. “Loại hình phẫu thuật này thường phải gây mê, thực hiện trên người béo, chủ yếu là người tương đối lớn tuổi với nhiều bệnh nền, chứa đựng nhiều rủi ro biến chứng”, PGS.TS.BS Lê Hành, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ Việt Nam, nói bên lề họp báo khởi động Hội nghị khoa học thẩm mỹ và triển lãm ASLS 2025, tổ chức gần đây. Theo phó giáo sư Hành, bất cứ cuộc gây mê nào cũng một vấn đề lớn với nhiều nguy cơ. Gây mê sai chỉ định hoặc quá liều, có thể dẫn đến ngộ độc, sốc thuốc khiến bệnh nhân rối loạn nhịp tim, suy hô hấp rồi ngưng tim, ngưng thở, tử vong. Mỹ ghi nhận tỷ lệ tử vong bệnh nhân hút mỡ bụng là 1/20.000 ca, còn Việt Nam chưa có thống kê cụ thể. Ngoài ra, bệnh nhân còn đối mặt với nguy cơ biến chứng sau hút mỡ do thuyên tắc mỡ. Điều này xảy ra thường do quy trình hút mỡ diễn ra kéo dài, mạch máu tổn thương, các vi mạch giãn ra. Các tế bào mỡ khi bị hút ngược vào lòng mạch, đi khắp cơ thể, nếu lên não gây đột quỵ, vào tim gây trụy tim, vào phổi gây phù. Năm ngoái, người phụ nữ 31 tuổi đột quỵ nhồi máu não do thuyên tắc mỡ sau hút mỡ bụng, cấy mỡ vùng trán và thái dương tại một thẩm mỹ viện ở TP HCM. Tử vong do hút mỡ cũng có thể xảy ra khi người thực hiện phẫu thuật không được đào tạo chuyên khoa, không có chứng chỉ hành nghề, không có kinh nghiệm phẫu thuật. Cơ sở thẩm mỹ nếu kém uy tín, không đủ trang thiết bị cấp cứu, thiếu nhân sự để theo dõi sát sao trong và sau mổ cũng dễ dẫn đến nguy hiểm cho bệnh nhân. PGS.TS.BS Lê Hành tại họp báo ngày 2/6. Ảnh: Minh Phương Lãnh đạo Hội Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ Việt Nam cho rằng điều nguy hiểm nhất hiện nay là bệnh nhân hút mỡ thường làm kèm nhiều thứ như đặt túi ngực, cấy mỡ…, còn gọi là “combo”. Điều này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ, bởi riêng việc hút mỡ đã là phẫu thuật lớn, đòi hỏi phải có quy trình nghiêm ngặt. Thực tế thời gian qua, TP HCM ghi nhận nhiều trường hợp tử vong trong lúc hút mỡ kết hợp nhiều loại hình khác. Tuần trước, người phụ nữ 32 tuổi bất ngờ ngưng tim rồi tử vong sau mổ nâng ngực và hút mỡ bắp tay tại Bệnh viện Răng hàm mặt Thẩm mỹ Paris, đang được cơ quan chức năng điều tra làm rõ nguyên nhân. Hồi tháng 5/2024, người phụ nữ 64 tuổi hôn mê sau hai ngày hút mỡ, cắt da thừa mí mắt, thay túi độn ngực tại Bệnh viện Tân Hưng, được cứu chữa hơn một tháng nhưng không qua khỏi. Trước đó, cô gái 31 tuổi đến một cơ sở thẩm mỹ học việc, được bà chủ nâng mũi, hút mỡ bụng, vài giờ sau thì tím tái, khó thở, tử vong khi vào viện cấp cứu. Đầu năm nay, Sở Y tế TP HCM đã ban hành “Quy trình chăm sóc toàn diện người bệnh thực hiện phẫu thuật hút mỡ tạo hình bụng”, với quy trình kỹ thuật chi tiết do chuyên gia thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau phối hợp xây dựng, theo từng giai đoạn mà người bệnh phải trải qua khi được chỉ định và phẫu thuật hút mỡ. Mỗi bước đều chỉ rõ những việc cần phải làm, do ai làm, cách làm như thế nào, dự báo những tình huống có thể xảy ra, cách giải quyết. “Trong khuyến cáo này, chúng tôi yêu cầu không hút mỡ theo hình thức ‘combo’, nhưng không ít nơi vẫn làm bất chấp với giải thích là thực hiện vì nhu cầu bệnh nhân muốn làm nhanh nhiều thứ cùng lúc”, bác sĩ nói. Bác sĩ trong phòng mổ tại bệnh viện ở TP HCM. Ảnh: Quỳnh Trần Theo ông Hành, một trong những tiêu chuẩn trong mổ hút mỡ là bệnh nhân an toàn, nghĩa là cần biết rõ bệnh nhân có bệnh lý gì hay không để có giải pháp phù hợp. Chẳng hạn, nếu người bệnh có đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch…, phải điều trị đưa các chỉ số về mức phù hợp, đủ điều kiện phẫu thuật mới thực hiện. Việc chỉ định gây mê, gây tê cần được cân nhắc kỹ lưỡng với từng trường hợp. Bác sĩ khuyến cáo người muốn phẫu thuật hút mỡ nên chọn bệnh viện được cấp phép hoạt động, bác sĩ có chứng chỉ hành nghề với phạm vi hoạt động chuyên môn dành cho loại hình này. Quá trình hút mỡ bụng phải được thực hiện ở bệnh viện có phòng mổ đạt chuẩn, có bác sĩ gây mê theo dõi và hỗ trợ, kiểm soát. Khách hàng trước khi hút mỡ bụng phải được kiểm tra sức khỏe tổng thể, xét nghiệm đầy đủ. Tuyệt đối không được thực hiện ở cơ sở thẩm mỹ viện. https://vnexpress.net/hut-mo-phau-thuat-lam-dep-de-tai-bien-chet-nguoi-4893664.html

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám