BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Previous slide
Next slide
0 + NĂM
Hình Thành và Phát Triển
0 +
Giáo sư, Bác sĩ
0 +
Bệnh Nhân
0 %
Khách hàng hài lòng

BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG

Ngày 03/7/2000 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định số 67/QĐ-UB về việc đổi tên “Trung tâm y tế dự phòng than Khu vực Nội Địa” thành “Bệnh viện Bắc Thăng Long” Từ đây Bệnh viện đã trực thuộc Sở Y tế Hà Nội và hoạt động theo đúng ngành dọc của mình. Trụ sở đóng tại: Tổ 18, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Bệnh viện Bắc Thăng Long ngày nay với quy mô 420 giường bệnh, 28 khoa, phòng chức năng và 2 bộ phận…

CHUYÊN KHOA NỔI BẬT

ĐỘI NGŨ CHUYÊN GIA

BSCKII. Nguyễn Văn Thành

Phó giám đốc Bệnh viện

ThS. Phùng Văn Dũng

Phó giám đốc Bệnh viện

BSCKII. Trần Xuân Thăng

Phó giám đốc Bệnh viện

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Công chức, viên chức chính thức nghỉ Tết Dương lịch 2026 liên tục 4 ngày

Dịp nghỉ Tết Dương lịch năm 2026, công chức, viên chức được nghỉ 4 ngày liên tục từ thứ Năm ngày 01/01/2026 đến hết Chủ nhật ngày 04/01/2026 Dương lịch (làm bù vào thứ Bảy ngày 10/01/2026). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Thị Thanh Trà tại Công văn số 12729/VPCP-KGVX ngày 25/12/2025 của Văn phòng Chính phủ về việc nghỉ Tết Dương lịch năm 2026, Bộ trưởng Bộ Nội vụ vừa gửi thông báo để các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp thực hiện lịch hoán đổi ngày làm việc. Cụ thể, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được hoán đổi ngày làm việc từ thứ Sáu ngày 02/01/2026 sang ngày nghỉ hằng tuần thứ Bảy ngày 10/01/2026. Như vậy, dịp nghỉ Tết Dương lịch năm 2026, công chức, viên chức được nghỉ 04 ngày liên tục từ thứ Năm ngày 01/01/2026 đến hết Chủ nhật ngày 04/01/2026 Dương lịch (làm bù vào thứ Bảy ngày 10/01/2026). Các cơ quan, đơn vị thực hiện lịch nghỉ trên phải bố trí sắp xếp các bộ phận làm việc hợp lý để giải quyết công việc liên tục, bảo đảm tốt công tác phục vụ tổ chức, Nhân dân, trong đó lưu ý cử công chức, viên chức ứng trực xử lý những công việc đột xuất, bất ngờ có thể xảy ra. Các cơ quan, đơn vị không thực hiện lịch nghỉ cố định thứ Bảy, Chủ nhật hằng tuần thì căn cứ vào chương trình, kế hoạch cụ thể của đơn vị để bố trí lịch nghỉ cho phù hợp, theo đúng quy định của pháp luật. Các bộ, cơ quan, địa phương có kế hoạch, biện pháp cụ thể, phù hợp, khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tích cực, chủ động triển khai thực hiện các biện pháp phát triển sản xuất, kinh doanh, các hoạt động kinh tế, xã hội, bảo đảm cung cầu hàng hóa, dịch vụ, ổn định giá cả, thị trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong thời gian trước, trong và sau dịp nghỉ Tết Dương lịch năm 2026. Khuyến khích người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp áp dụng thời gian nghỉ Tết Dương lịch năm 2026 cho người lao động như quy định đối với công chức, viên chức nhưng bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật, khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động. https://baochinhphu.vn/cong-chuc-vien-chuc-duoc-nghi-4-ngay-dip-tet-duong-lich-2026-102251225111845247.htm

Tiến tới Đại hội XVIII: Công đoàn Hà Nội đổi mới mô hình, nâng cao hiệu quả hoạt động

Hướng tới Đại hội Công đoàn thành phố Hà Nội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Thành phố triển khai kế hoạch tổ chức Đại hội Công đoàn các cấp với mục tiêu đổi mới mô hình, nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo đảm hoàn thành toàn bộ tiến trình trước ngày 31/12/2025, khẳng định vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi đoàn viên và người lao động. Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội vừa ban hành Kế hoạch số 117/KH-LĐLĐ về việc tổ chức Đại hội Công đoàn các cấp, tiến tới Đại hội Công đoàn thành phố Hà Nội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, đánh dấu bước chuyển mới trong mô hình tổ chức công đoàn, đồng thời cụ thể hóa kịp thời các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn hoạt động công đoàn. Đại hội Công đoàn các cấp được triển khai với phương châm: Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Đổi mới – Phát triển, bảo đảm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động. Đại hội Công đoàn cấp cơ sở, Công đoàn xã, phường; Công đoàn các khu công nghệ cao và khu công nghiệp Thành phố sẽ tập trung thảo luận, thông qua báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ qua; đề ra chỉ tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp cho nhiệm kỳ mới. Đại hội cũng sẽ góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội Công đoàn cấp trên, tổng hợp kiến nghị của đoàn viên, người lao động về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động và hoạt động công đoàn; tham gia ý kiến sửa đổi, bổ sung Điều lệ Công đoàn Việt Nam; bầu, chỉ định Ban Chấp hành Công đoàn nhiệm kỳ mới, các chức danh cán bộ chủ chốt và đại biểu dự Đại hội Công đoàn cấp trên (nếu có). Đại hội Công đoàn thành phố Hà Nội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2023-2028 Đối với những công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn cơ sở không đủ điều kiện tổ chức Đại hội và được LĐLĐ Thành phố cho phép thì tổ chức hội nghị đại biểu, hội nghị toàn thể đoàn viên hoặc hội nghị Ban Chấp hành mở rộng để kiểm điểm việc thực hiện hoạt động thời gian vừa qua, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu nhiệm kỳ mới, đóng góp ý kiến vào văn kiện Đại hội Công đoàn cấp trên và thực hiện công tác nhân sự Ban chấp hành và đại biểu dự Đại hội Công đoàn cấp trên (nếu có). Đại hội XVIII Công đoàn thành phố Hà Nội gồm các nội dung: Thảo luận, thông qua báo cáo của Ban Chấp hành LĐLĐ Thành phố khóa XVII, nhiệm kỳ 2023-2028 trình Đại hội XVIII Công đoàn Thành phố; quyết định chỉ tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cho nhiệm kỳ 2025-2030; tham gia góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam, tham gia ý kiến sửa đổi, bổ sung Điều lệ Công đoàn Việt Nam; bầu Ban Chấp hành LĐLĐ Thành phố khóa XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030 và tổng hợp kiến nghị của đoàn viên Công đoàn, người lao động về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn, người lao động và hoạt động công đoàn. Công đoàn xã, phường, các khu công nghệ cao và khu công nghiệp Thành phố phải hoàn thành Đại hội trước ngày 31/10/2025; Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn cơ sở, Công đoàn cơ sở thành viên và Công đoàn bộ phận tiến hành Đại hội hoàn thành trước ngày 15/12/2025. Thời gian tổ chức Đại hội chính thức không quá một buổi, khuyến khích kết hợp với hội nghị tổng kết công tác Công đoàn năm 2025 của đơn vị, doanh nghiệp. Đại hội Công đoàn thành phố Hà Nội khóa XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030 được tiến hành sau khi hoàn thành việc chỉ đạo tổ chức Đại hội Công đoàn cấp cơ sở, Công đoàn các xã, phường, Công đoàn các khu công nghệ cao và khu công nghiệp thành phố Hà Nội sau Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030, hoàn thành trước ngày 31/12/2025. https://hanoi.gov.vn/tin-so-nganh/tien-toi-dai-hoi-xviii-cong-doan-ha-noi-doi-moi-mo-hinh-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-4250924180953025.htm ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LẦN THỨ XVIII, NHIỆM KỲ 2025-2030 tải khung hình tại đây

Bộ Chính trị ban hành Kết luận sửa đổi, bổ sung Quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ trong tiếp dân và xử lý kiến nghị của Nhân dân

Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận số 215-KL/TW về việc sửa đổi, bổ sung Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ trong tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý các phản ánh, kiến nghị của dân. Theo Kết luận, Bộ Chính trị thống nhất điều chỉnh, bổ sung một số nội dung quan trọng nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phản ánh của Nhân dân. Theo đó, Khoản 2, Điều 1 được sửa đổi theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng, bao gồm người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp xã và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo có thể là người dân, cán bộ, đảng viên hoặc đại diện cơ quan, đơn vị. Khoản 8, Điều 3 được sửa đổi, quy định rõ chế độ báo cáo định kỳ hằng tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng, năm hoặc đột xuất về công tác tiếp dân và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị. Theo đó, bí thư cấp uỷ cấp tỉnh báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Nội chính Trung ương, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; bí thư cấp uỷ cấp xã báo cáo với bí thư cùng các ban nội chính, tuyên giáo và dân vận cấp tỉnh. Tại Khoản 1, Điều 4, Kết luận sửa đổi quy định về lịch tiếp dân định kỳ: người đứng đầu cấp uỷ cấp tỉnh phải tiếp dân ít nhất 1 ngày/tháng; người đứng đầu cấp uỷ cấp xã tiếp dân ít nhất 2 ngày/tháng; đồng thời yêu cầu công khai thời gian tiếp dân để Nhân dân biết và thực hiện quyền giám sát. Bộ Chính trị cũng sửa đổi tên gọi Điều 5 thành “Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người đứng đầu cấp uỷ” và Điều 7 thành “Việc xử lý đơn, thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo gửi đến cơ quan, đơn vị của người đứng đầu cấp uỷ” nhằm bảo đảm rõ ràng, thống nhất. Đáng chú ý, Khoản 2, Điều 9 được sửa đổi, giao Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo, Dân vận, Uỷ ban Kiểm tra và Ban Tổ chức Trung ương tham mưu, giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện; đồng thời định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung khi cần thiết. Bộ Chính trị yêu cầu cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp khẩn trương quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Kết luận số 215-KL/TW; trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh khó khăn, vướng mắc, phải kịp thời báo cáo Bộ Chính trị thông qua Ban Nội chính Trung ương để xem xét, giải quyết./. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-dang-doan-the.aspx?ItemID=25847&CateID=66

Từ 1/7/2026: Luật Viên chức (sửa đổi) bổ sung thêm hình thức tiếp nhận vào làm viên chức

Luật Viên chức năm 2025 vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 10/12, có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Luật này quy định chi tiết và đổi mới phương thức tuyển dụng viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập. Theo quy định hiện hành, Luật Viên chức năm 2010 quy định phương thức tuyển dụng viên chức tại Điều 23 khá đơn giản. Cụ thể, Luật Viên chức năm 2010 quy định: “Việc tuyển dụng viên chức được thực hiện thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển”. Luật Viên chức năm 2025 quy định phương thức tuyển dụng viên chức chi tiết hơn tại Điều 17. Theo đó, việc tuyển dụng viên chức được thực hiện thông qua hai hình thức. Thứ nhất là thi tuyển. Thứ hai là xét tuyển đối với từng nhóm đối tượng theo quy định của Chính phủ. Ngoài hai hình thức tuyển dụng trên, Luật Viên chức năm 2025 còn quy định 3 nhóm đối tượng được tuyển dụng theo hình thức tiếp nhận vào làm viên chức nếu đáp ứng ngay yêu cầu của vị trí việc làm. Thứ nhất là đối với chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng, năng khiếu đặc biệt, người có kinh nghiệm phù hợp. Thứ hai là người đang ký hợp đồng làm công việc tại đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ ba là các đối tượng khác theo quy định của pháp luật về ngành, lĩnh vực. Điều khoản này đã luật hóa phương thức tuyển dụng tiếp nhận vào làm viên chức chưa được quy định tại Luật Viên chức năm 2010 (được sửa đổi, bổ sung tại Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi năm 2019). Tại Khoản 3 Điều 17, Luật Viên chức năm 2025 còn có quy định riêng áp dụng đối với người đang là cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương trong quân đội nhân dân, công an nhân dân, tổ chức cơ yếu. Nếu những người này đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện của vị trí việc làm và được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập thì không phải thực hiện các quy định tuyển dụng trên. Ngoài ra, Luật Viên chức năm 2025 còn quy định cụ thể căn cứ tuyển dụng viên chức tại Điều 15. Theo đó, 3 căn cứ chính để tuyển dụng viên chức là: Nhu cầu thực tế của đơn vị; vị trí việc làm; quỹ tiền lương và nguồn thu hợp pháp khác của đơn vị sự nghiệp công lập. https://dantri.com.vn/noi-vu/doi-moi-phuong-thuc-tuyen-dung-vien-chuc-20251215130919002.htm

Thông báo: điều chỉnh danh mục tài liệu ôn tập kiểm tra, sát hạch vòng 2 kỳ tuyển dụng viên chức 2025

Để tạo điều kiện cho thí sinh dự tuyển, Hội đồng tuyển dụng viên chức năm 2025 của Bệnh viện Bắc Thăng Long thông báo điều chỉnh danh mục tài liệu ôn tập kiểm tra, sát hạch vòng 2 kỳ tuyển dụng viên chức 2025 như sau: Xem chi tiết Thông báo 1399 tại đây   Đọc thêm: BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG: THÔNG BÁO TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NĂM 2025                    THÔNG BÁO: Xét tuyển viên chức vào làm việc tại Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2025

Người từ 75 tuổi hưởng hưu trí được BHYT chi trả 100% chi phí khám, chữa bệnh

Nghị quyết được Quốc hội vừa thông qua, cho phép mở rộng quyền lợi chăm sóc sức khỏe và giảm chi phí y tế cho người dân. Sáng 11/12 vừa qua, Quốc hội thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân với 431/433 đại biểu Quốc hội tán thành. Để mở rộng quyền lợi chăm sóc sức khỏe và giảm chi phí y tế cho người dân, Nghị quyết quy định thực hiện tăng tỷ lệ, mức thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT; chi cho khám sàng lọc, chẩn đoán, điều trị sớm một số bệnh và đối tượng ưu tiên từ Quỹ BHYT theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khả năng cân đối của ngân sách Nhà nước, Quỹ BHYT. Cụ thể, người tham gia BHYT là đối tượng thuộc hộ gia đình cận nghèo, người cao tuổi từ đủ 75 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, được áp dụng mức hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT. Quốc hội thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Ảnh: Quochoi.vn. Quốc hội cũng quyết định tăng tỷ lệ mức hưởng trong phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT cho đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp và một số đối tượng cần ưu tiên khác. Quỹ BHYT chi cho khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh. Cũng theo nghị quyết của Quốc hội, từ 01/01/2030 sẽ thực hiện chính sách miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khả năng cân đối của Quỹ BHYT và việc tăng mức đóng BHYT. Quốc hội định hướng tổ chức thực hiện thí điểm đa dạng hóa các gói BHYT, đa dạng các loại hình cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế và thực hiện BHYT bổ sung do các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp theo nhu cầu của người dân khi đủ điều kiện thực hiện. Chính phủ sẽ quy định đối tượng và lộ trình tăng mức hưởng trong phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT; danh mục bệnh và lộ trình thực hiện việc chi từ quỹ BHYT cho khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh, đảm bảo phù hợp với việc tăng mức đóng BHYT từ năm 2027. Bên cạnh các chính sách hướng tới người bệnh, Nghị quyết cũng dành sự quan tâm đặc biệt tới đội ngũ nhân viên y tế, lực lượng nòng cốt của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Theo đó, bác sĩ y khoa, bác sĩ y học cổ truyền, bác sĩ răng hàm mặt, bác sĩ y học dự phòng và dược sĩ khi được tuyển dụng vào chức danh nghề nghiệp tương ứng sẽ được xếp lương từ bậc 2 cho đến khi có quy định mới về tiền lương. Quy định này góp phần cải thiện thu nhập, tạo động lực để thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao cho ngành y. Nghị quyết cũng quy định mức phụ cấp ưu đãi nghề ở mức 100% đối với những người thường xuyên, trực tiếp làm chuyên môn y tế trong các lĩnh vực đặc thù như tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu, giải phẫu bệnh. Đối với nhân viên y tế làm việc tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng, mức phụ cấp ưu đãi nghề đạt 100% nếu công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; các khu vực còn lại hưởng mức tối thiểu 70%. Đặc biệt, nhằm bảo đảm an toàn cho nhân viên y tế, Quốc hội khẳng định rõ các hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng hoặc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhân viên y tế sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định pháp luật, từ kỷ luật, xử phạt hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời buộc phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công khai./. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-y-te.aspx?ItemID=25854&CateID=169

Quốc hội thông qua Luật Dân số: Từ năm 2026, lao động sinh con thứ hai được nghỉ thai sản tới 7 tháng

Luật Dân số quy định thời gian nghỉ thai sản với lao động nữ là 7 tháng, hỗ trợ tài chính cho phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi và ưu tiên mua nhà ở xã hội với người có từ 2 con đẻ trở lên. Sáng 10/12, với 448/450 đại biểu có mặt tán thành (chiếm 94,71%), Quốc hội chính thức thông qua Luật Dân số gồm 8 chương, 30 điều. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Trình bày báo cáo tóm tắt dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết dự án lần này thể hiện bước chuyển quan trọng, đưa trọng tâm chính sách từ kế hoạch hóa gia đình sang tiếp cận dân số và phát triển. Luật quy định về truyền thông – giáo dục dân số; duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; thích ứng già hóa dân số; nâng cao chất lượng dân số; cùng các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác dân số. Để duy trì mức sinh thay thế, Luật bổ sung nhiều chính sách mới. Đáng chú ý, lao động nữ sinh con thứ hai được nghỉ thai sản 7 tháng; lao động nam được nghỉ 10 ngày làm việc khi vợ sinh con. So với quy định hiện hành, thời gian nghỉ của lao động nữ tăng thêm một tháng. Luật cũng bổ sung các chính sách hỗ trợ tài chính: hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người khi sinh con; hỗ trợ phụ nữ tại những địa phương có mức sinh thấp; và hỗ trợ phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi. Đặc biệt, người có từ hai con đẻ trở lên sẽ được ưu tiên mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội. Chính phủ được giao quy định mức hưởng cụ thể theo điều kiện kinh tế – xã hội từng thời kỳ. Quốc hội thông qua Luật Dân số (nguồn: Internet) Luật Dân số đặt ra khung chính sách tổng thể, gắn với các lĩnh vực lao động, việc làm, tiền lương, BHXH, BHYT, trợ cấp, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và nhà ở, nhằm ổn định và duy trì mức sinh thay thế bền vững. Cũng trong sáng 10/12, Quốc hội thông qua Luật Phòng bệnh với 93,02% đại biểu tán thành. Luật gồm 6 chương, 46 điều và có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Một nội dung được quan tâm lớn là quy định về khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc miễn phí. Để bảo đảm nguồn lực thực hiện, Chính phủ đã điều chỉnh quy định theo hướng đa dạng hóa nguồn kinh phí, gồm ngân sách nhà nước, xã hội hóa và đặc biệt là nguồn từ Quỹ BHYT. Điều 44 của Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT, cho phép Quỹ BHYT chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ, khám sàng lọc miễn phí theo lộ trình phù hợp với khả năng cân đối quỹ. Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhận định đây là bước đột phá quan trọng nhằm thể chế hóa các Nghị quyết số 20 và 72. Luật cũng hoàn thiện các quy định về phòng chống bệnh không lây nhiễm, rối loạn tâm thần và dinh dưỡng, hướng tới quản lý nguy cơ, tăng cường sàng lọc và phát hiện sớm bệnh, đặc biệt với nhóm yếu thế và vùng khó khăn. Nội dung phòng chống bệnh truyền nhiễm được điều chỉnh trên cơ sở bài học từ đại dịch COVID-19, khắc phục các bất cập và phù hợp với bối cảnh mới. Đối với Quỹ phòng bệnh, Luật yêu cầu tách bạch mục tiêu – nhiệm vụ của quỹ để tăng tính minh bạch. Quỹ được bổ sung nhiệm vụ chi cho khám sức khỏe định kỳ và sàng lọc miễn phí nhằm bảo đảm nguồn lực ổn định cho chính sách mới. Các vấn đề về kỹ thuật văn bản, thống nhất pháp luật, thuật ngữ, hành vi bị nghiêm cấm và trách nhiệm của cơ quan quản lý – báo chí đã được rà soát, chỉnh lý kỹ lưỡng trước khi Luật được Quốc hội thông qua./. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/kinh-te-xa-hoi.aspx?ItemID=25812&CateID=170

Từ 1/7/2026: Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả khám sức khỏe định kỳ – Bước tiến lớn trong chăm sóc sức khỏe toàn dân

Người dân trên cả nước sẽ chính thức được Quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc miễn phí theo lộ trình và khả năng cân đối của Quỹ. Quy định quan trọng này được nêu trong Luật Phòng bệnh, vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua sáng ngày 10/12. Luật gồm 6 chương, 46 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2026. Việc đưa khám sức khỏe định kỳ vào phạm vi được Quỹ BHYT chi trả là bước đột phá lớn trong chính sách y tế, thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc chuyển mạnh từ “chữa bệnh” sang “phòng bệnh”, từng bước nâng cao sức khỏe, chất lượng cuộc sống của người dân. Giảm gánh nặng chi phí y tế Khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc là hoạt động quan trọng giúp phát hiện sớm bất thường sức khỏe. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người dân, nhất là người thu nhập thấp, người cao tuổi, đồng bào ở vùng khó khăn còn hạn chế tiếp cận dịch vụ này do phải tự chi trả. Khi Quỹ BHYT tham gia chi trả, người dân có điều kiện được chăm sóc sức khỏe thường xuyên hơn, chất lượng hơn mà không phải lo lắng về chi phí. Phát hiện sớm bệnh tật, giảm chi phí điều trị về lâu dài Việc khám định kỳ giúp phát hiện sớm các bệnh không lây nhiễm phổ biến như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa, ung thư… Qua đó tăng khả năng điều trị hiệu quả, giảm thiểu biến chứng và chi phí điều trị về lâu dài. Đây được xem là giải pháp bền vững nhằm giảm gánh nặng chi phí y tế cho cả người dân và hệ thống BHYT. Tiếp cận dịch vụ y tế dự phòng toàn diện hơn Cùng với quy định về khám sức khỏe định kỳ, Luật Phòng bệnh bổ sung và hoàn thiện hàng loạt dịch vụ chăm sóc sức khỏe như khám bệnh từ xa, chăm sóc tại nhà, y học gia đình, phục hồi chức năng, quản lý bệnh mạn tính… Việc thiết kế đồng bộ các dịch vụ dự phòng – điều trị sẽ tạo nên hệ thống chăm sóc sức khỏe liên tục, toàn diện, phù hợp với xu hướng hiện đại. Đồng thời tại Điều 44 của dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế quy định người dân được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ, khám sàng lọc miễn phí theo lộ trình và khả năng cân đối của Quỹ bảo hiểm y tế. Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trong quá trình hoàn thiện dự án luật, Chính phủ đã cân nhắc kỹ lưỡng nguồn kinh phí thực hiện, dựa trên các nguồn: ngân sách nhà nước, xã hội hóa và đặc biệt là Quỹ BHYT. Việc mở rộng phạm vi chi trả của Quỹ BHYT đồng thời là giải pháp triển khai hiệu quả các mục tiêu của Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và Nghị quyết số 72-NQ/TW về cải cách chính sách BHYT. Hoàn thiện chính sách để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện Luật Phòng bệnh đã tiếp thu nhiều ý kiến góp ý để hoàn thiện các chính sách về chuyên môn trong lĩnh vực phòng bệnh, bao gồm: phòng, chống bệnh không lây nhiễm, chăm sóc sức khỏe tâm thần, dinh dưỡng hợp lý, quản lý nguy cơ sàng lọc, phát hiện sớm bệnh và các biện pháp dự phòng phù hợp với từng nhóm đối tượng. Đồng thời, luật ưu tiên các giải pháp nhằm hỗ trợ người thuộc nhóm yếu thế, vùng khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế dự phòng. Đối với Quỹ Phòng bệnh, luật quy định rõ mục đích và nhiệm vụ chi nhằm đảm bảo tính minh bạch và bền vững. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quỹ là chi cho hoạt động khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc miễn phí, thống nhất với quy định về mở rộng quyền lợi tại Điều 27 và Điều 44 của Luật. Hướng tới hệ thống chăm sóc sức khỏe dự phòng cho mọi người dân Khi chính sách bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2026, người dân sẽ được tiếp cận dịch vụ khám sức khỏe định kỳ được Quỹ BHYT chi trả theo lộ trình phù hợp. Đây là bước đi quan trọng nhằm xây dựng nền y tế dự phòng hiện đại, hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân, nâng cao chất lượng sống, giảm chi phí y tế và tăng cường khả năng phát hiện sớm bệnh tật. Sự thay đổi này không chỉ tạo thêm quyền lợi cho người tham gia BHYT mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội bền vững, bao trùm, đặt sức khỏe người dân ở vị trí trung tâm của chính sách./. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/kinh-te-xa-hoi.aspx?ItemID=25826&CateID=170

Bộ Y tế: Thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Dược phẩm Bình Minh

PGS.TS Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế vừa ký ban hành Quyết định số 3824 /QĐ-BYT, ngày 11 tháng 12 năm 2025 về việc thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược số 802/ĐKKDD-BYT ngày 27 tháng 01 năm 2023 của Công ty phần xuất nhập khẩu Dược phẩm Bình Minh. Địa chỉ trụ sở chính ghi trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược: 40 Nguyễn Giản Thanh, gian hàng Q1 (trệt, lầu 1 và toàn bộ lầu 2), Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa điểm kinh doanh ghi trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược: 40 Nguyễn Giản Thanh, gian hàng Q1 (trệt, lầu 1 và toàn bộ lầu 2), Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Người chịu trách nhiệm chuyên môn về dược: là bà Ngô Thùy Dương có trình độ chuyên môn Dược sỹ Đại học; Chứng chỉ hành nghề dược số: 5150/HCM-CCHND do Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29 tháng 12 năm 2015; phạm vi kinh doanh: Xuất khẩu, nhập khẩu thuốc. Lý do thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược: Công ty có văn bản thông báo ngừng hoạt động kinh doanh dược. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành. Quyết định số 222/QĐ-BYT ngày 27 tháng 01 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược cho Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Dược phẩm Bình Minh hết hiệu lực. Chi tiết Quyết định tại đây https://moh.gov.vn/thong-tin-chi-dao-dieu-hanh/-/asset_publisher/DOHhlnDN87WZ/content/bo-y-te-thu-hoi-giay-chung-nhan-u-ieu-kien-kinh-doanh-duoc-cua-cong-ty-co-phan-xuat-nhap-khau-duoc-pham-binh-minh?inheritRedirect=false&redirect=https%3A%2F%2Fmoh.gov.vn%3A443%2Fthong-tin-chi-dao-dieu-hanh%3Fp_p_id%3D101_INSTANCE_DOHhlnDN87WZ%26p_p_lifecycle%3D0%26p_p_state%3Dnormal%26p_p_mode%3Dview%26p_p_col_id%3Drow-3-column-3%26p_p_col_count%3D2

HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU

Lần đầu tiên bác sĩ Việt Nam vi phẫu thuật thành công ‘cứu’ ngón tay bệnh nhân đứt rời sau 25 giờ

Khi đang làm nhiệm vụ trên tàu viễn dương, anh D là thủy thủ tàu viễn dương đã gặp tai nạn nghiêm trọng, ngón trỏ tay phải đứt rời… Bão số 12 đổ bộ khiến con tàu chao đảo mạnh vào thời điểm anh D đang sửa chữa thiết bị. Cú va đập bất ngờ khiến anh bị đứt rời ngón trỏ tay phải. Rất may, các thuyền viên trên tàu đã nhanh chóng sơ cứu và bảo quản phần chi thể đứt rời được đặt vào bình giữ nhiệt, đưa anh lên bờ và tiếp cận cơ sở y tế gần nhất tại miền Trung. Lúc này bão gió to, việc đưa anh D vào bờ thực sự rất khó khăn và cần sự hỗ trợ rất lớn của cơ quan tìm kiếm cứu hộ cứu nạn quốc gia. Trong tình huống khẩn cấp, sau khi được nhân viên y tế hỗ trợ xử trí cấp cứu, anh D mong muốn được nối lại phần chi thể đứt rời, vì vậy anh và gia đình quyết định đón chuyến bay sớm nhất từ Đà Nẵng ra Hà Nội ngay rạng sáng hôm sau đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Tổng thời gian thiếu máu lên tới 25 giờ. Kíp mổ thực hiện vi phẫu nối lại ngón tay cho người bệnh với kính hiển vi. Ảnh: BVCC Hai kíp phẫu thuật song song quyết tâm ‘cứu’ ngón tay đứt rời của thủy thủ Tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, các chuyên gia đã đánh giá phần chi thể đứt rời và ghi nhận: phần chi thể đứt rời đã được sơ cứu – bảo quản đúng cách, khớp ngón tay còn mềm, cấu trúc mô được bảo toàn tốt. Bệnh viện lập tức hội chẩn đa chuyên khoa gồm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, gây mê hồi sức, chấn thương chỉnh hình để đưa ra chiến lược xử trí tối ưu và quyết định thực hiện vi phẫu nối lại ngón tay cho người bệnh. Tại phòng mổ, kíp phẫu thuật cấp cứu được triển khai với sự phối hợp đa chuyên khoa: vi phẫu tạo hình, gây mê hồi sức, chấn thương chỉnh hình… Hai kíp phẫu thuật được triển khai song song, một kíp làm sạch và chuẩn bị phần ngón đứt rời, kíp còn lại chuẩn bị phần mỏm cụt. Xương ngón được định vị và cố định bằng kim chuyên dụng để tạo trục vững, hệ thống gân và dây chằng được phục hồi. Đặc biệt là thần kinh và các mạch máu nhỏ li ti chỉ khoảng 0,8 – 1mm được phục hồi với độ chính xác cao dưới kính hiển vi phẫu thuật với dụng cụ đặc biệt nhằm đảm bảo phục hồi lưu thông tưới máu cho phần đứt rời. Đây là kỹ thuật đòi hỏi sự tinh vi ở mức cao nhất, bởi chỉ cần một mối nối mạch máu không thông, dòng máu không thể nuôi được đầu ngón và phần chi sẽ hoại tử. Với trường hợp thiếu máu kỷ lục kéo dài 25 giờ, từ lượng máu tưới đến nhiệt độ của ngón tay, kiểm soát nguy cơ co thắt mạch và giám sát tuần hoàn ngoại vi sau mổ để đảm bảo ngón tay được hồi sinh trọn vẹn. Trường hợp nối chi thể có nhiều điều đặc biệt… TS.BS Vũ Trung Trực – Phó Trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt, Tạo hình và Thẩm mỹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, người trực tiếp thực hiện ca phẫu thuật, chia sẻ, đây là trường hợp cực kỳ đặc biệt. Trong những ca nối chi thể, thời gian thiếu máu kéo dài thường là rào cản rất lớn. Trước phẫu thuật, người bệnh và phần cơ thể đứt rời cần được đánh giá bởi đội ngũ các bác sĩ đa chuyên khoa nhiều kinh nghiệm. “Trường hợp này, nhờ bảo quản phần chi thể đứt rời đúng cách ngay từ hiện trường, khớp ngón tay không bị cứng nhờ được bảo quản ở nhiệt độ phù hợp. Một yếu tố nữa, cấu trúc ngón tay (bao gồm: xương, da, dây thần kinh, mạch máu) có khả năng chịu thiếu máu tốt hơn so với phần chi thể có nhiều cơ nên phần ngón tay bị thiếu máu 25 giờ nhưng vẫn có thể được nối lại. Đồng thời, đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm và sự phối hợp tốt giữa các chuyên khoa cũng là thế mạnh của bệnh viện. Đây chính là những điểm quyết định lớn đến thành công của ca phẫu thuật”- TS.BS Vũ Trung Trực nói. Sau phẫu thuật, vết thương đã liền, ngón tay hồng, sống hoàn toàn, người bệnh đã có thể cắt chỉ và rút kim cố định. Người bệnh đang được tập phục hồi chức năng để lấy lại khả năng vận động và cảm giác của ngón tay. Tai nạn đứt rời ngón tay, bàn tay hay các phần cơ thể có thể xảy ra bất cứ lúc nào, từ lao động sản xuất, tai nạn sinh hoạt cho đến tai nạn trên biển như trường hợp của bệnh nhân D. TS.BS Vũ Trung Trực – Phó Trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt, Tạo hình và Thẩm mỹ thăm khám sau phẫu thuật cho người bệnh. Ảnh:BVCC Vì vậy, chuyên gia khuyến cáo người dân cần trang bị kiến thức sơ cứu đúng cách, bởi đây là yếu tố quyết định khả năng cứu sống chi thể: Không rửa, không ngâm chi thể đứt rời vào bất kỳ dung dịch nào. Trong trường hợp phần đứt rời trong môi trường bẩn nhiều dị vật, có thể rửa dưới vòi nước sạch, tốt hơn là nước uống tinh khiết hoặc nước đun sôi để nguội. Bọc phần chi thể bằng gạc/khăn sạch, cho vào túi nylon và buộc kín (tránh tiếp xúc trực tiếp với đá lạnh). Đặt túi đựng chi thể vào một túi khác có chứa đá lạnh. Giữ phần

Hình ảnh y học ấn tượng nhất thế kỷ 21

Bệnh nhân suy tim ho ra cục máu đông có hình dạng như một cây phế quản nguyên vẹn, trở thành một trong những hình ảnh y học ấn tượng nhất thế kỷ 21. Năm 2018, Tạp chí Y học New England (The New England Journal of Medicine) đăng tải hình ảnh một cấu trúc kỳ lạ, có màu đỏ anh đào và hình dạng giống cành cây. Thoạt nhìn, nhiều người có thể lầm tưởng đó là một phần của hệ thống rễ cây hoặc một mảnh san hô. Tuy nhiên, đây là một cục máu đông hoàn chỉnh, dài 15,24 cm, có hình dạng gần như giống hệt cây phế quản phải của con người – một trong hai mạng lưới ống dẫn khí vào và ra khỏi phổi. Điều đáng kinh ngạc là nó được ho ra nguyên vẹn. Bệnh nhân là một người đàn ông 36 tuổi ở California. Hình ảnh cục máu đông vừa đẹp mắt vừa đáng sợ đến nay vẫn được các chuyên gia coi là một trong những hình ảnh y học ấn tượng nhất thế kỷ 21 cho đến nay. Nhiều người hoang mang, lo ngại rằng đó có thể là một lá phổi bị ho ra, nhưng điều này gần như không thể xảy ra. Ngay cả các bác sĩ điều trị cũng không thể giải thích chính xác cách cục máu đông này đi qua đường thở mà không bị vỡ. Tiến sĩ Georg Wieselthaler, bác sĩ phẫu thuật phổi và ghép tạng tại Đại học California, San Francisco (UCSF), cho biết bệnh nhân nhập viện trong tình trạng suy tim giai đoạn cuối. Anh được kết nối với một máy bơm hỗ trợ tâm thất để tối đa hóa lưu lượng máu, nhưng thiết bị này cũng làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông. “Dòng chảy rối bên trong máy bơm có thể dẫn đến hiện tượng này, vì vậy tất cả bệnh nhân sử dụng thiết bị đều phải dùng thuốc chống đông máu”, tiến sĩ Wieselthaler giải thích. Tuy nhiên, thuốc chống đông máu cũng mang đến rủi ro. Ở người khỏe mạnh, máu thiếu oxy rời khỏi tim, đi qua mạng lưới mao mạch phức tạp trong phổi để nhận oxy từ đường thở. Nếu các mạch này xuất hiện vết nứt nhỏ, cơ thể sẽ tự vá lại bằng cơ chế đông máu. Nhưng với bệnh nhân dùng thuốc chống đông, khả năng tự vá bị suy giảm, khiến các tổn thương có thể trở nên nghiêm trọng. Trong trường hợp này, máu từ mạng lưới mao mạch phổi của bệnh nhân đã tràn vào phổi phải, di chuyển đến cây phế quản. Sau nhiều ngày ho ra các cục máu đông nhỏ hơn, nam bệnh nhân đã ho mạnh và tống ra ngoài một cục máu đông lớn với hình dạng kỳ lạ. Khi tiến sĩ Wieselthaler cùng đồng nghiệp cẩn thận mở cục máu đông, họ phát hiện cấu trúc đường thở vẫn nguyên vẹn đến mức có thể xác định đó là cây phế quản phải chỉ bằng cách quan sát số lượng nhánh và cách sắp xếp của chúng. “Chúng tôi rất ngạc nhiên. Đây là một trường hợp cực kỳ hiếm gặp”, ông nói. Mặc dù hiếm, trường hợp này không phải chưa từng có tiền lệ. Một nghiên cứu năm 1926 trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ (The Journal of the American Medical Association) ghi nhận một phụ nữ 34 tuổi nhập viện vì nhiễm trùng đường hô hấp và ho ra “một mảnh màng lớn” – một lớp tế bào và chất nhầy tích tụ do nhiễm trùng – có hình dạng đúc của khí quản, hai phế quản và một số tiểu phế quản. Năm 2005, Tạp chí Phẫu thuật Tim-Lồng ngực châu Âu (European Journal of Cardio-Thoracic Surgery) công bố ảnh chụp một hình đúc cây phế quản nhỏ hơn, do một phụ nữ mang thai 25 tuổi bị rối loạn đông máu ho ra. Cô đã hồi phục và sinh con khỏe mạnh. Tuy nhiên, người phụ nữ bị nhiễm trùng đường hô hấp trong nghiên cứu năm 1926 đã không qua khỏi. Viêm phế quản nhựa, một bệnh lý chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em, thường đi kèm với rối loạn dòng bạch huyết và các bệnh tim, phổi khác. Bệnh này có thể khiến dịch bạch huyết tích tụ trong đường thở, dần trở nên cứng và bị ho ra nguyên vẹn. Đối với bệnh nhân hen suyễn, chất nhầy cũng có thể cứng lại trong đường thở do co thắt phế quản và mất nước, từ đó bị ho ra trong các cơn hen. Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp đã ghi nhận, chỉ có người phụ nữ mang thai năm 2005 ho ra một cục máu đông, lớn nhất từng được chụp ảnh – cho đến trường hợp của bệnh nhân tại UCSF. Máu đông ít chắc chắn và kém dính hơn bạch huyết hoặc chất nhầy cứng, vậy tại sao cục máu đông này không bị vỡ? Tiến sĩ Wieselthaler cho rằng fibrinogen, một protein huyết tương có vai trò như “keo dán” trong quá trình đông máu, có thể là yếu tố quyết định. Bệnh nhân không chỉ bị suy tim mà còn nhiễm trùng, điều này có thể khiến nồng độ fibrinogen trong máu cao hơn bình thường. Theo ông, sự gia tăng fibrinogen có thể đã khiến cục máu đông có độ đàn hồi bất thường, giúp nó không bị vỡ khi di chuyển qua đường thở. Gavitt Woodard, bác sĩ nội trú khoa phẫu thuật lồng ngực tại UCSF, người đã giúp tiến sĩ Wieselthaler chụp bức ảnh, cho rằng chính kích thước của cục máu đông đã giúp bệnh nhân ho ra được. “Có thể vì nó quá lớn, nên bệnh nhân đã tạo đủ lực từ toàn bộ bên phải lồng ngực để đẩy nó ra ngoài.

Ca ghép phổi siêu khó lần đầu tiên Việt Nam làm được: Nhật Bản đưa tin, y khoa toàn cầu đánh giá cao

8 năm trước, ghép phổi được đánh giá là một kỹ thuật khó, chỉ một số quốc gia trên thế giới làm được. Tuy nhiên, thời điểm đó, Việt Nam đã phẫu thuật thành công cho một bệnh nhi. 2 người cùng hiến 1 phần lá phổi để bé 7 tuổi có cả 2 lá phổi Theo các chuyên gia, để thực hiện ghép phổi, các bác sĩ phải lựa chọn đánh giá tình trạng phổi của người cho, người nhận rất chặt chẽ. Sau ghép, việc chăm sóc để phổi ghép đủ khỏe, đủ chức năng cũng rất khó, bởi ngay khi được cắt ra, phổi sẽ bị tổn thương nên nguy cơ nhiễm trùng cũng cao hơn các tạng khác. “Ghép phổi là kỹ thuật ghép tạng khó nhất”, bác sĩ Trần Bình Giang, nguyên Giám đốc Bệnh viện Việt Đức đã từng chia sẻ. Cách đây 8 năm, ghép phổi là một kỹ thuật khó không chỉ với Việt Nam mà trên thế giới. Tuy nhiên, Bệnh viện Quân y 103 đã quyết tâm thực hiện ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam. Ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh nhân của ca ghép là cháu Ly Chương Bình (7 tuổi, quê ở xã Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang). Bình được chẩn đoán giãn phế quản bẩm sinh lan tỏa 2 phổi, đã biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn, suy dinh dưỡng độ III, có chỉ định tuyệt đối để ghép phổi. Nếu không được phẫu thuật ghép phổi thì Bình có tiên lượng tử vong cao. Hai người tình nguyện hiến 1 phần lá phổi cho Bình là bố em (28 tuổi) và bác ruột (30 tuổi) để tạo thành 2 lá phổi cho em. Ngày 21/2/2017, các bác sĩ của bệnh viện Quân y 103 đã phối hợp với một số bệnh viện và chuyên gia Nhật Bản và thực hiện thành công ca ghép phổi cho Bình. Trong ca ghép, Bình được cắt bỏ bộ 2 lá phổi bệnh, sau đó ghép 1 thùy phổi từ bố và 1 thùy từ bác ruột. Ca phẫu thuật kéo dài khoảng 11 giờ và được đánh giá là thành công. Sau 2 ngày ghép phổi, Bình đã được rút ống nội khí quản và tự thở được. Bình tỉnh táo, nói chuyện được, các chỉ số sinh học ổn định. Ca ghép phổi với nhiều khó khăn Ca ghép phổi từ người hiến còn sống đầu tiên tại Việt Nam đã thu hút sự chú ý của báo chí quốc tế và được đánh giá cao trong cộng đồng y khoa toàn cầu. Ca ghép này được đánh giá khó vì người cho là 2 người khác nhau (bố và bác của bệnh nhân) trong khi các ca ghép khác chỉ cần một người. Do đó, áp lực từ những người làm chuyên môn là rất lớn. Một khó khăn khác nữa là thể trạng của Bình rất yếu, do mắc bệnh từ nhỏ nên các cơ quan như tim của em cũng bị ảnh hưởng. Bình bị suy dinh dưỡng, 7 tuổi mà chỉ có 14kg. Ngoài ra, một khó khăn khác là nguy cơ nhiễm khuẩn phổi cao. Do phổi là cơ quan hô hấp cung cấp oxy cho cơ thể, hít thở với không khí bên ngoài nên nguy cơ nhiễm khuẩn rất cao. Nếu công tác khử khuẩn phòng mổ, công tác hậu phẫu không đảm bảo vô trùng thì phẫu thuật sẽ có nguy cơ thất bại. Trước khi thực hiện ca ghép phổi này, bệnh viện quân y đã cử các bác sĩ sang Nhật học kinh nghiệm ghép phổi, từ khâu gây mê, phẫu thuật tới chạy máy để đảm bảo ca ghép thành công. Bệnh nhi được lãnh đạo Bộ Y tế thời điểm đó tới thăm hỏi. Trường Đại học Okayama, Nhật Bản đã cử một đội ngũ chuyên gia đến hỗ trợ ca phẫu thuật và công bố thông tin về sự thành công của ca ghép này trên trang tin chính thức của họ. Một số báo chí quốc tế cũng đã đưa thông tin về thành công của ca ghép phổi từ người hiến còn sống đầu tiên tại Việt Nam. Điều này không chỉ phản ánh tầm quan trọng của sự kiện mà còn ghi nhận bước tiến đáng kể của y học Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây, ghép phổi chỉ có thể thực hiện ở các quốc gia có nền y học tiên tiến như Mỹ, Đức, Tây Ban Nha, Áo, Vương Quốc Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thành công của ca ghép này đã đưa Việt Nam vào danh sách các nước có khả năng thực hiện kỹ thuật khó này. Thành công của ca ghép phổi từ người cho sống đầu tiên tại việt Nam không chỉ mở ra cơ hội sống cho bệnh nhân mà còn khẳng định Việt Nam có thể làm chủ những kỹ thuật ghép tạng phức tạp. PGS.TS Nguyễn Mạnh An, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân Y 103 chia sẻ: “Thành công của ca ghép phổi này không chỉ là thành tựu của bệnh viện mà còn là của nền y tế Việt Nam. Những tạng lớn của con người Việt Nam đều có thể ghép được và người bệnh có cơ hội ghép tạng ngay ở trong nước, gia thành rẻ hơn rất nhiều”. Tại thời điểm đó, khi đánh giá về ca ghép tạng này, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định: “Ca ghép phổi đầu tiên từ người cho sống thành công, Việt Nam đã ghi tên trên bản đồ thế giới trong kỹ thuật ghép phổi, đưa chuyên ngành ghép tạng của Việt Nam lên một tầm cao mới. Đây là thành tích lớn lao chào mừng 62 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2”. Đến nay, Việt Nam đã làm

Kỳ tích: ca ghép gan đặc biệt cho bệnh nhi 8 tháng tuổi, nặng chỉ 6,5kg từ người hiến chết não

Ngày 18/4 trở thành một dấu mốc đáng nhớ với Hệ thống Y tế Vinmec và ngành phẫu thuật ở Việt Nam khi nơi này thực hiện thành công ca ghép gan đặc biệt cho một bệnh nhi 8 tháng tuổi, nặng chỉ 6,5kg. Không chỉ là ca ghép gan ở bệnh nhi nhẹ cân nhất từng thực hiện tại Vinmec, đây còn là một trong những ca ghép gan nhỏ tuổi và nhẹ cân hiếm hoi tại Việt Nam, mang lại hy vọng sống cho nhiều bệnh nhi mắc bệnh gan hiểm nghèo. Bé N.L.T chào đời khỏe mạnh nhưng chỉ sau vài ngày, trên cơ thể nhỏ bé ấy đã xuất hiện những dấu hiệu bất thường. Mẹ của bé kể, khi con mới 10 ngày tuổi, chị phát hiện trên da có những chấm xuất huyết nhỏ, đưa đi khám thì phát hiện men gan cao. Lúc ấy, bác sĩ khuyên về nhà theo dõi thêm. Nhưng khi về nhà, da con càng lúc càng vàng, mắt cũng vàng, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu, bụng trướng to bất thường. Những ngày sau, mẹ bé chạy khắp các bệnh viện lớn, từ Bệnh viện Đại học Y, Bệnh viện Nhi Trung ương… rồi nhận về một chẩn đoán lạnh người: bệnh nhi teo mật bẩm sinh. “Lúc ấy, em chưa hiểu rõ, chỉ nghĩ bệnh tim bẩm sinh còn chữa được thì bệnh này chắc cũng không quá nghiêm trọng. Nhưng đến khi vào viện, nhìn những đứa trẻ bụng trướng căng, da vàng sậm, em mới biết bệnh của con mình nặng thế nào”, chị kể. Phát hiện con mình bị căn bệnh hiếm, rất nguy hiểm và vô cùng khó chữa nhưng người mẹ cắn răng âm thầm không nói với bất cứ ai. “Mọi người hỏi han về tình hình bệnh tật của con, nhưng em vẫn giấu cho đến khi con mổ thì mọi người mới biết. Vào thăm con, thấy các bạn ở cùng khoa với những triệu chứng rất nặng thì mọi người mới biết bệnh này nguy hiểm. Lúc đó cứ ai hỏi em về tình hình bệnh của con là em càng khóc”, người mẹ nghẹn ngào nhớ lại. Bé T. nhanh chóng được chỉ định phẫu thuật Kasai – một phương pháp nối đường mật ngoài gan với ruột – khi mới 1,5 tháng tuổi. Thế nhưng, hy vọng mong manh ấy nhanh chóng tắt lịm. Bệnh tình không thuyên giảm, da vẫn vàng, gan vẫn to, bụng trướng, bé quấy khóc triền miên, lách to gây chèn ép cơ hoành, khiến bé thở khó nhọc. Gia đình liên tục đi khám, trung bình 1-2 tuần/lần, bệnh viện dần trở thành ngôi nhà thứ hai của hai mẹ con. Đỉnh điểm của tuyệt vọng là khi các xét nghiệm từ bố, mẹ, ông, bà đều không phù hợp để hiến gan. Người mẹ trẻ gần như sụp đổ, có lúc từng nghĩ “hai mẹ con cùng đi đến nơi thật xa, giải thoát cho nhau để con không phải chịu đau đớn nữa”. Nhưng giữa lúc mọi cánh cửa dần khép lại, tin vui bất ngờ đến: Có một phần lá gan phù hợp từ bệnh nhân chết não tại Bệnh viện Bạch Mai có cùng nhóm máu với bé T. Một tia hy vọng lóe sáng, sự sống sẽ được chuyển giao. Ngay lập tức, hệ thống “Báo động đỏ” của Vinmec được kích hoạt. Hội đồng Chuyên môn Ghép gan khẩn cấp triệu tập, bao gồm các chuyên khoa Ngoại khoa Gan – Mật, Gây mê, Hồi sức cấp cứu, Nhi khoa, Chẩn đoán hình ảnh, Xét nghiệm, Dược…, dưới sự chủ trì của Thầy thuốc Nhân dân, PGS.TS.BS Phạm Đức Huấn – Giám đốc Trung tâm Tiêu hóa – Gan mật – Tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Hội đồng Chuyên môn Ghép gan đã hội chẩn và đi đến kết luận bệnh nhi bị xơ gan giai đoạn cuối do teo đường mật bẩm sinh. Họ thống nhất: Ghép gan là phương pháp duy nhất cứu sống bé. Tuy nhiên, bệnh nhi chỉ nặng 6,5kg và tiền sử bệnh trong thời gian dài của cháu bé đặt ra những thách thức lớn về gây mê – hồi sức và đặc biệt là kỹ thuật ghép. Tất cả đã được đội ngũ y bác sĩ Vinmec thảo luận rất chi tiết và đưa ra các phương án để đảm bảo an toàn cho bệnh nhi. Ca mổ được thực hiện chỉ sau 4 giờ chuẩn bị – một khoảng thời gian kỷ lục. Nhớ lại ca phẫu thuật, PGS.TS.BS Lê Văn Thành, người đóng vai trò tổng chỉ huy cuộc ghép, kể: “Ca phẫu thuật kéo dài hơn 10 tiếng, từng bước tiến hành và phối hợp chính xác đến từng phút. Chúng tôi làm việc với áp lực cao nhất, vì hiểu rằng từng giây, từng phút trôi qua là sự sống của bệnh nhi bị đe dọa”. Với thể trạng chỉ 6,5kg, các mạch máu trong cơ thể bé chỉ 3-4mm, nhỏ bằng khoảng một phần ba so với người trưởng thành. Không chỉ có vậy, bé còn gặp hai bất thường mạch máu nghiêm trọng: Teo tĩnh mạch cửa, teo tĩnh mạch chủ dưới đoạn sau gan – những thách thức cực lớn đòi hỏi phải tạo hình lại toàn bộ hệ thống mạch máu. “Đây là ca ghép khó nhất mà chúng tôi từng thực hiện, vì bệnh nhi nhỏ tuổi, nhẹ cân, có nhiều bất thường giải phẫu, đồng thời phải khắc phục tình trạng rối loạn đông máu. Bất cứ sai sót nhỏ nào cũng có thể dẫn tới thảm họa”, TS.BS Đào Đức Dũng- một trong những phẫu thuật viên chính của kíp mổ- chia sẻ. Ngay sau khi kết thúc ca mổ, thuốc mê vừa ngừng, tiếng khóc của cháu bé vang lên từ phòng mổ. Đó không chỉ là tiếng khóc của một em bé, mà là

Tư vấn sức khoẻ

Bơm xi măng sinh học – phương pháp điều trị hiệu quả xẹp thân đốt sống

Xẹp thân đốt sống là một trong những biến chứng thường gặp do loãng xương (chủ yếu ở người lớn tuổi và phụ nữ sau mãn kinh), sau chấn thương hoặc do các tổn thương bệnh lý khác (U máu thân đốt, tổn thương thứ phát do di căn…) trên nền bệnh nhân loãng xương… Xẹp thân đốt sống gây đau đớn, hạn chế vận động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Có nhiều phương pháp điều trị xẹp thân đốt sống như: cố định ngoài, phẫu thuật, điều trị nội khoa, tạo hình thân đốt sống qua da bằng xi măng sinh học. Trong đó, phương pháp tạo hình đốt sống qua da mà Bệnh viện Bắc Thăng Long hiện đang thực hiện thường quy đã mang lại lợi ích và hiệu quả thấy rõ cho người bệnh. Bà Ng Thị T – 72 tuổi nhập viện trong tình trạng rất đau ở lưng. Kết quả thăm khám cho thấy bà T bị xẹp thân đốt sống lưng cần phải điều trị can thiệp. Đã từng chứng kiến người quen cũng bị tổn thương đốt sống lưng như mình, sau khi phẫu thuật cả năm trời vẫn chưa thể hồi phục, bà T rất lo lắng. Nhưng khi được BSCKII Đàm Quang Thịnh – Trưởng Khoa Chấn thương tư vấn về hướng điều trị theo phương pháp tạo hình thân đốt sống qua da bằng xi măng sinh học thì bà T yên tâm hơn hẳn, gia đình bà T rất mừng khi biết so với các phương pháp truyền thống như điều trị nội khoa, mặc áo nẹp đốt sống…, kỹ thuật bơm xi măng sinh học được đánh giá an toàn, ít biến chứng và hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, gia đình người bệnh lo ngại vì sợ chi phí điều trị bằng kỹ thuật cao này rất lớn trong khi điều kiện kinh tế khó khăn. Thấu hiểu lo lắng của gia đình người bệnh, BSCKII Đàm Quang Thịnh cho biết: Hiện bộ vật tư, thuốc điều trị trong thực hiện dịch vụ kỹ thuật cao này được BHYT chi trả (lưu ý: Chi phí bảo hiểm y tế chi trả sẽ tùy thuộc vào mức hưởng thẻ bảo hiểm và tình trạng của từng người bệnh). Sau hơn 30 phút thực hiện thủ thuật chỉ với 2 vết chọc kim rất nhỏ, không phải mổ mở, không gây mất máu, ít để lại sẹo, bà T đã giảm đau đến 80%, có thể vận động, sinh hoạt lại dễ dàng sau đó 2-3 giờ… Thông tin thêm về kỹ thuật can thiệp này, BSCKII Đàm Quang Thịnh cho biết: Phẫu thuật tạo hình thân đốt sống bằng xi măng sinh học là một phẫu thuật ít xâm lấn. Xi măng sinh học được bơm vào thân đốt sống với mục đích giảm đau, nâng chiều cao thân đốt sống, tái khôi phục đường cong sinh lý và tăng độ vững cho cột sống. Tại Bệnh viện Bắc Thăng Long phẫu thuật tạo hình thân đốt sống bằng xi măng sinh học được thực hiện hằng ngày, một cách thường quy dưới sự hỗ trợ của hệ thống máy móc hiện đại nên hình ảnh rõ nét giúp phẫu thuật viên thao tác dễ dàng, chính xác, hạn chế tai biến, biến chứng có thể xảy ra cho người bệnh. Phòng CTXH  

Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc rối loạn tiền đình

Rối loạn tiền đình ngày càng xuất hiện ở nhiều độ tuổi và gây ảnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt hằng ngày. Nhận diện sớm các yếu tố nguy cơ giúp chủ động phòng ngừa và hạn chế biến chứng Rối loạn tiền đình là gì? Rối loạn tiền đình thường gặp ở người cao tuổi, nhưng ngày càng có xu hướng trẻ hóa, xuất hiện ở mọi lứa tuổi và phổ biến hơn ở người trưởng thành. Nếu không được điều trị sớm, bệnh có thể gây nhiều biến chứng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Rối loạn tiền đình là tình trạng quá trình truyền dẫn và tiếp nhận thông tin của hệ tiền đình bị rối loạn hoặc tắc nghẽn do tổn thương dây thần kinh số 8, động mạch nuôi dưỡng não, hoặc các tổn thương khác tại tai trong và não. Khi đó tiền đình mất khả năng giữ thăng bằng, gây loạng choạng, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, buồn nôn… Những triệu chứng này tái diễn nhiều lần và thường xuất hiện đột ngột, gây khó chịu và cản trở sinh hoạt, lao động của người bệnh. Hai yếu tố chính làm tăng nguy cơ mắc bệnh là tuổi tác và tiền sử bệnh. Rối loạn tiền đình có thể gặp ở mọi độ tuổi, nhưng tỷ lệ ở người cao tuổi cao hơn. Theo dữ liệu y tế, trong 100 người từ 40 tuổi trở lên, có khoảng 30 người mắc rối loạn tiền đình. Hiện nay, do ảnh hưởng của môi trường và khí hậu, số người trẻ xuất hiện triệu chứng rối loạn tiền đình cũng đang tăng. Những người từng có tiền sử chóng mặt có nguy cơ cao phát triển rối loạn tiền đình về sau.Hai loại rối loạn tiền đình Rối loạn tiền đình ngoại biên: xuất phát từ tổn thương hệ tiền đình ở vùng tai trong. Triệu chứng thường rầm rộ với chóng mặt, mất thăng bằng nhưng ít nguy hiểm đến tính mạng. Đây là nhóm bệnh phổ biến nhất. Rối loạn tiền đình trung ương: do tổn thương nhân tiền đình tại thân não hoặc tiểu não. Nhóm bệnh này ít gặp hơn nhưng nguy hiểm hơn. Yếu tố gây rối loạn tiền đình Rối loạn tiền đình ngoại biên Viêm thần kinh tiền đình hoặc viêm tai trong: do nhiễm virus hoặc vi khuẩn. Chấn thương vùng đầu hoặc cột sống cổ: ảnh hưởng đến dây thần kinh và tuần hoàn, gây tổn thương hệ tiền đình. Rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường, rối loạn lipid máu, suy giáp. Tác dụng phụ của thuốc: một số thuốc như aminoglycoside, thuốc an thần, thuốc giảm đau thần kinh có thể tác động đến tai trong. Yếu tố tâm lý: căng thẳng, lo âu, trầm cảm có thể làm nặng thêm triệu chứng. Mất ngủ, làm việc quá sức, thay đổi thời tiết: khiến cơ thể suy nhược và ảnh hưởng hoạt động thần kinh – tuần hoàn. U dây thần kinh số 8. Viêm tai giữa cấp hoặc mạn tính. Nguyên nhân rối loạn tiền đình trung ương Đột quỵ não (đặc biệt vùng cầu não, tiểu não hoặc chẩm). U não. Hạ huyết áp tư thế. Hội chứng Wallenberg. Giang mai thần kinh. Xơ cứng rải rác. Thiếu máu tuần hoàn não. Đau đầu migraine. Những người có nguy cơ cao mắc rối loạn tiền đình Rối loạn tiền đình có thể gặp ở nhiều nhóm tuổi, nhưng một số đối tượng có nguy cơ cao hơn do đặc điểm sức khỏe, lối sống hoặc tính chất công việc: 1. Người trung niên và cao tuổi Tuần hoàn máu kém và thoái hóa hệ thần kinh – tiền đình theo tuổi. Nguy cơ đột quỵ cao, dẫn đến rối loạn tiền đình trung ương. 2. Người mắc bệnh nền mạn tính Tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu ảnh hưởng tuần hoàn và tai trong. Thoái hóa đốt sống cổ gây chèn ép mạch máu lên não, dễ dẫn đến hội chứng tiền đình. 3. Người bị viêm tai, chấn thương đầu hoặc tai Gây tổn thương hệ tiền đình ngoại biên. 4. Người làm việc căng thẳng, ít vận động, rối loạn giấc ngủ Stress kéo dài làm tăng cortisol, góp phần gây bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường và tổn thương hệ thần kinh, trong đó có dây thần kinh số 8. 5. Phụ nữ, đặc biệt giai đoạn tiền mãn kinh hoặc mãn kinh Thay đổi nội tiết tố, tuần hoàn và tâm lý khiến nguy cơ rối loạn tiền đình cao hơn. 6. Phụ nữ mang thai Ốm nghén, chán ăn dẫn đến thiếu dinh dưỡng; tâm lý thay đổi, lo lắng khiến thai phụ dễ chóng mặt, choáng váng và xuất hiện triệu chứng rối loạn tiền đình. Tóm lại: Rối loạn tiền đình có thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống nếu không được phòng ngừa và điều trị đúng cách. Để giảm nguy cơ mắc bệnh và ngăn ngừa tái phát, cần: Duy trì lối sống lành mạnh: ngủ đủ giấc, ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, uống đủ nước, tập thể dục đều đặn. Kiểm soát tốt bệnh lý nền: điều trị ổn định tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, thoái hóa cột sống cổ. Khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm vấn đề ảnh hưởng đến hệ tiền đình. Quản lý stress: tránh lo âu kéo dài, thư giãn qua đọc sách, nghe nhạc, thiền… Tránh thay đổi tư thế đột ngột: ngồi dậy từ từ, hạn chế xoay đầu nhanh, chú ý khi lên xuống cầu thang, tránh đọc báo trên xe. Hạn chế môi trường gây kích thích tiền đình: tránh tàu xe dài giờ, tránh tiếng ồn, ánh sáng chớp nháy hoặc sử dụng máy tính liên tục mà không nghỉ. Tập phục hồi tiền

WHO ban hành hướng dẫn toàn cầu đầu tiên về sử dụng thuốc GLP-1 trong điều trị béo phì

Trước gánh nặng béo phì ảnh hưởng hơn 1 tỷ người, WHO lần đầu ban hành hướng dẫn toàn cầu về sử dụng thuốc chủ vận GLP-1 trong điều trị béo phì như một bệnh mạn tính. Tổ chức nhấn mạnh việc dùng thuốc phải đi kèm chăm sóc toàn diện, đảm bảo tiếp cận công bằng và chuẩn bị hệ thống y tế. 1. Béo phì – thách thức sức khỏe toàn cầu ngày càng gia tăng Béo phì đang ảnh hưởng đến người dân ở mọi quốc gia và là nguyên nhân liên quan tới 3,7 triệu ca tử vong trên toàn thế giới chỉ riêng năm 2024. Nếu không có biện pháp ứng phó mạnh mẽ, số người mắc béo phì có thể tăng gấp đôi vào năm 2030. WHO đánh giá béo phì là một bệnh lý mạn tính phức tạp, làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch, tiểu đường type 2, một số ung thư và làm giảm hiệu quả điều trị của nhiều bệnh truyền nhiễm. Bên cạnh gánh nặng sức khỏe, chi phí kinh tế toàn cầu do béo phì được dự báo đạt 3 nghìn tỷ USD mỗi năm vào năm 2030. Trong bối cảnh nhiều quốc gia yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật, WHO đã phát triển hướng dẫn toàn cầu nhằm định hình cách tiếp cận thống nhất, khoa học trong điều trị béo phì — đặc biệt là vai trò của thuốc chủ vận GLP-1. 2. Hướng dẫn mới: Thuốc GLP-1 được khuyến nghị sử dụng cho điều trị béo phì lâu dài Đây là lần đầu tiên WHO ban hành hướng dẫn chính thức về sử dụng liệu pháp GLP-1 trong điều trị béo phì. Trước đó, tháng 9/2025, các thuốc này đã được bổ sung vào Danh mục Thuốc thiết yếu để kiểm soát đái tháo đường type 2 ở nhóm nguy cơ cao. Trong hướng dẫn, WHO đưa ra hai khuyến nghị có điều kiện quan trọng: 1. GLP-1 có thể sử dụng cho người lớn mắc béo phì, trừ phụ nữ mang thai Các thuốc như liraglutide, semaglutide và tirzepatide được chứng minh mang lại hiệu quả giảm cân, cải thiện chuyển hóa và giảm nguy cơ biến chứng. Tuy nhiên, khuyến nghị vẫn có điều kiện do: Dữ liệu an toàn và hiệu quả lâu dài còn hạn chế Chi phí thuốc hiện vẫn cao Hệ thống y tế nhiều nước chưa sẵn sàng triển khai rộng rãi Lo ngại về công bằng trong tiếp cận dịch vụ 2. Người dùng GLP-1 nên được kết hợp can thiệp hành vi chuyên sâu WHO nhấn mạnh các biện pháp can thiệp có cấu trúc về dinh dưỡng, thay đổi hành vi và tăng cường hoạt động thể chất có thể mang lại kết quả điều trị tốt hơn. Điều này dựa trên bằng chứng tuy có độ tin cậy thấp nhưng mang ý nghĩa thực hành quan trọng. Tiến sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc WHO, khẳng định: “Chỉ dùng thuốc sẽ không thể giải quyết cuộc khủng hoảng béo phì toàn cầu. Liệu pháp GLP-1 là một phần của chiến lược chăm sóc toàn diện, giúp hàng triệu người vượt qua bệnh lý mạn tính này”. 3. Ba trụ cột để giải quyết béo phì bền vững Hướng dẫn của WHO nhấn mạnh béo phì không chỉ là vấn đề y tế cá nhân mà là thách thức của toàn xã hội. Việc kiểm soát bền vững đòi hỏi chiến lược đa ngành, với ba trụ cột chính: 1. Tạo môi trường sống lành mạnh hơn:Quốc gia cần thực thi các chính sách mạnh mẽ để thúc đẩy ăn uống lành mạnh, giảm thực phẩm không tốt cho sức khỏe, khuyến khích hoạt động thể chất và phòng ngừa béo phì ngay từ cộng đồng. 2. Bảo vệ nhóm nguy cơ cao:Sàng lọc sớm, can thiệp có mục tiêu và chăm sóc liên tục giúp hạn chế tiến triển của béo phì và giảm biến chứng. 3. Đảm bảo tiếp cận dịch vụ chăm sóc trọn đời, lấy con người làm trung tâm: Người bệnh béo phì cần được điều trị toàn diện, từ tư vấn dinh dưỡng, hỗ trợ tâm lý đến dùng thuốc và theo dõi lâu dài. 4. Thách thức trong triển khai: Giá thuốc, khả năng chi trả và tính công bằng Nhu cầu GLP-1 tăng mạnh dẫn đến nguy cơ bất bình đẳng y tế nếu không có chính sách phù hợp. WHO cảnh báo: Nếu không mở rộng sản xuất, tới năm 2030 chỉ dưới 10% người cần thuốc có thể tiếp cận. Chi phí cao có thể khiến nhiều quốc gia thu nhập thấp – trung bình đứng ngoài cuộc. Hệ thống y tế nhiều nước còn thiếu nhân lực, năng lực giám sát và cơ chế chi trả cho nhóm thuốc mới. WHO kêu gọi cộng đồng quốc tế “hành động khẩn cấp”, thúc đẩy: Mua sắm chung Định giá theo từng bậc Cấp phép tự nguyện Tăng sản xuất, đảm bảo chuỗi cung ứng 5. Nguy cơ sản phẩm GLP-1 giả và kém chất lượng Nhu cầu tăng nhanh của thuốc GLP-1 đã kéo theo sự xuất hiện của sản phẩm giả, kém chất lượng, tạo ra rủi ro nghiêm trọng cho người bệnh. WHO nhấn mạnh cần: Kê đơn và phân phối nghiêm ngặt bởi nhân viên y tế có chuyên môn Tăng cường giám sát dược Giáo dục bệnh nhân về dùng thuốc an toàn Hợp tác quốc tế để ngăn chặn thuốc giả WHO khuyến cáo các quốc gia phải cảnh giác cao độ để bảo vệ bệnh nhân và duy trì niềm tin vào hệ thống y tế. Hướng dẫn được xây dựng dựa trên phân tích sâu các bằng chứng và ý kiến của nhiều bên liên quan, bao gồm cả người có trải nghiệm thực tế với béo phì. Đây là một phần trong kế hoạch đẩy nhanh tiến độ chấm dứt tình

Đấu thầu

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám