BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Hoạt Động Nghiên Cứu

Hoạt Động Nghiên Cứu

Đặt điện cực định vị vùng chức năng trong phẫu thuật u thần kinh đệm lan tỏa

Lần đầu tiên tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, ê-kíp áp dụng kỹ thuật đặt điện cực theo dõi chức năng liên tục trong lúc bệnh nhân mắc u thần kinh đệm nhu mô não kích thước lớn được gây mê toàn thân, thay thế cho phương pháp mổ thức tỉnh vốn khó áp dụng với khối u quá lớn và thời gian mổ kéo dài. Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tiếp nhận B.V.L (43 tuổi, Phú Thọ) nhập viện trong tình trạng đau đầu dữ dội, được chẩn đoán mắc u thần kinh đệm nhu mô não kích thước lớn (khoảng 8cm), khối u lan tỏa sâu vào nhiều vùng chức năng quan trọng của bán cầu phải, bao gồm vùng vận động, vùng ngôn ngữ và vùng bao trong – nơi chỉ huy vận động nửa người. Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Duy Tuyển, Trưởng khoa Phẫu thuật Thần kinh 2, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết: Thách thức đặt ra cho ê-kíp phẫu thuật là làm sao lấy tối đa khối u nhưng vẫn bảo tồn chức năng thần kinh. Đặc biệt, với u thần kinh đệm độ ác tính cao, tiêu chuẩn phẫu thuật khuyến cáo cần lấy thêm 4–5 mm mô xâm lấn quanh u để hạn chế tái phát, nhưng càng tiến gần vùng chức năng, nguy cơ di chứng càng lớn. Hệ thống điện cực được gắn vào các nhóm cơ tương ứng. Quy trình phẫu thuật được triển khai theo các bước chặt chẽ, bắt đầu bằng việc dựng sơ đồ vỏ não để định hướng tiếp cận qua vùng “không chức năng”, sau đó khi vào tới nhân xám trung ương – nơi chứa các đường dẫn truyền vận động, phẫu thuật viên sử dụng các điện cực thăm dò vừa hút khối u vừa phát hiện tín hiệu chức năng. Hệ thống điện cực được gắn vào các nhóm cơ tương ứng (mổ bán cầu phải gắn vào tay-chân trái và ngược lại) để theo dõi đáp ứng vận động theo thời gian thực. Khi tiến đến gần vùng chức năng khoảng 3-4 mm, thiết bị phát cảnh báo và khi chỉ còn cách 1mm, tín hiệu được truyền trực tiếp giúp phẫu thuật viên dừng đúng thời điểm, bảo tồn tối đa chức năng thần kinh đồng thời loại bỏ tối đa tổ chức u. Nhờ kỹ thuật này, ê-kíp có thể kiểm soát an toàn ngay cả khi u xâm lấn gần toàn bộ bán cầu, đồng thời đánh giá vận động ngay trong mổ. Trước khi đóng vết mổ, kiểm tra kích thích điện cho thấy tay chân bệnh nhân vẫn hoạt động tốt; sau phẫu thuật, bệnh nhân được đánh giá lại và ghi nhận chức năng vận động hoàn toàn bảo tồn dù khối u lan tỏa rất rộng. https://moh.gov.vn/tin-tong-hop/-/asset_publisher/k206Q9qkZOqn/content/-at-ien-cuc-inh-vi-vung-chuc-nang-trong-phau-thuat-u-than-kinh-em-lan-toa?inheritRedirect=false&redirect=https%3A%2F%2Fmoh.gov.vn%3A443%2Ftin-tong-hop%3Fp_p_id%3D101_INSTANCE_k206Q9qkZOqn%26p_p_lifecycle%3D0%26p_p_state%3Dnormal%26p_p_mode%3Dview%26p_p_col_id%3Drow-3-column-2%26p_p_col_pos%3D1%26p_p_col_count%3D2

Hai bác sĩ Việt Nam nhận chứng chỉ thành viên danh dự của tổ chức ngoại khoa hàng đầu thế giới

Theo phóng viên TTXVN tại London, hai bác sĩ Việt Nam gồm bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Đỗ Thị Ngọc Linh (Bệnh viện hữu nghị Việt Đức) và bác sĩ Lê Diệp Linh (Phó Giám đốc Trung tâm phẫu thuật sọ mặt và tạo hình, Bệnh viện Trung ương quân đội 108) vừa được công nhận là thành viên danh dự Hiệp hội phẫu thuật Hoàng gia Anh (RCS), một trong những danh hiệu uy tín nhất trong ngành phẫu thuật thế giới. Lễ trao chứng chỉ thành viên diễn ra tại trụ sở RCS ở London tháng 11/2025. https://baotintuc.vn/infographics/hai-bac-si-viet-nam-nhan-chung-chi-thanh-vien-danh-du-cua-to-chuc-ngoai-khoa-hang-dau-the-gioi-20251120192010359.htm

PGS Việt Nam 2 lần được Nga mời mổ thị phạm: Tự mày mò làm chủ kỹ thuật mổ ‘đi du lịch trong não người’

PGS.TS Đồng Văn Hệ, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam được giới chuyên môn biết đến là một trong những người tiên phong đưa kỹ thuật mổ nội soi thần kinh về Việt Nam. Từ những ngày đầu tự mày mò với thiết bị thô sơ, đến hai lần được mời sang Nga mổ thị phạm quốc tế, hành trình hơn hai thập kỷ của ông là câu chuyện về đam mê, sáng tạo và tinh thần dấn thân không ngừng nghỉ. Hai lần mổ thị phạm tại Nga Ngọc Minh: Thưa Phó Giáo sư, được biết ông vừa có chuyến công tác đặc biệt tại Nga, tham gia một chương trình phẫu thuật và đào tạo quốc tế. Ông có thể chia sẻ thêm về lần công tác này? PGS.TS Đồng Văn Hệ: Đây là khóa đào tạo do hội phẫu thuật thần kinh Tyumen tổ chức, chủ yếu dành cho các bác sĩ trẻ. Trước đó, năm 2023 tôi đã từng sang Nga phẫu thuật một lần và lần này là lần thứ hai được mời tham gia. Thông thường, trong các khóa đào tạo như vậy, họ mời chuyên gia hàng đầu từ nhiều quốc gia đến hướng dẫn và trình diễn kỹ thuật. Đợt này có các giáo sư đến từ Nhật Bản, Ấn Độ, Ý, Brazil và tôi đại diện cho Việt Nam. Mỗi người đảm nhiệm một lĩnh vực chuyên sâu khác nhau: Giáo sư Nhật mạnh về phẫu thuật mạch máu não, chuyên gia Brazil chuyên u nền sọ… Còn tôi phụ trách các ca nội soi điều trị bệnh lý dây V, một trong những kỹ thuật khó nhất hiện nay trong phẫu thuật thần kinh. Ngọc Minh: Làm việc ở một môi trường mới, với ekip hoàn toàn khác, ông có gặp khó khăn gì không? PGS.TS Đồng Văn Hệ: Thật ra, mọi thứ diễn ra rất trơn tru. Dù ekip hỗ trợ là bác sĩ người Nga, nhưng tinh thần hợp tác và sự chuyên nghiệp của họ khiến ca mổ diễn ra suôn sẻ. Lần đầu sang Nga, tôi đi một mình và bác sĩ Nga là người phụ mổ. Sau khi xem tôi mổ thị phạm, một thời gian sau, tôi nhận được tin nhắn từ đồng nghiệp Nga: “Tôi đã làm được hai ca rồi!”. Chỉ sau một buổi trình diễn, họ đã có thể áp dụng thành công. Điều khiến các đồng nghiệp Nga thích thú chính là ưu điểm vượt trội của nội soi so với phương pháp mổ kinh điển. Với vi phẫu truyền thống, ánh sáng chiếu từ kính hiển vi bên ngoài vào vùng mổ giống như soi ánh đèn qua khe cửa vào căn phòng tối. Còn nội soi, chúng tôi đưa nguồn sáng trực tiếp vào trong não như mang ngọn đèn vào giữa căn phòng. Ánh sáng khi ấy rõ, rộng, chiếu sáng mọi ngóc ngách, giúp bác sĩ quan sát được toàn cảnh cấu trúc mạch máu, dây thần kinh. Hình ảnh sắc nét, độ phóng đại lớn, màu sắc trung thực chúng tôi vẫn nói vui là “đi du lịch trong não người”. Mỗi ca mổ, vì thế, vừa là một hành trình khoa học vừa là một tác phẩm nghệ thuật. Bước đi đầu tiên của mổ nội soi thần kinh tại Việt Nam Ngọc Minh: Ông nói rằng đây là phương pháp khó, vậy khi đưa kỹ thuật này về Việt Nam lần đầu tiên, ông có lo ngại gì không? PGS.TS Đồng Văn Hệ: Ở Việt Nam, phẫu thuật nội soi bắt đầu khá sớm, từ những năm 1992–1993 với các ca cắt túi mật hay ruột thừa. Nhưng nội soi trong não thì phải đến năm 2003, chúng tôi mới thực hiện ca đầu tiên tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ban đầu đó chỉ là kỹ thuật đơn giản, thường quy. Khoảng năm 2008, khi kinh nghiệm và kỹ năng đã đủ “chín”, chúng tôi bắt đầu thực hiện phẫu thuật u hộp sọ bằng nội soi. Riêng phẫu thuật nội soi dây V, tôi chỉ triển khai trong 5 năm gần đây, từ năm 2020. Trước đó, chúng tôi chủ yếu mổ vi phẫu, có hỗ trợ nội soi, vừa làm vừa quan sát để đảm bảo an toàn tối đa cho người bệnh. Thời gian đầu, điều kiện vô cùng thiếu thốn. Thiết bị gần như không có, chúng tôi phải vay mượn, xin hỗ trợ từ bạn bè quốc tế. Một Giáo sư người Úc từng tặng tôi bộ dụng cụ cơ bản, trong đó có cả màn hình. Từ những trang thiết bị thô sơ ấy, chúng tôi bắt đầu những ca nội soi não thất đầu tiên đơn giản nhất. Sau này, tôi có cơ hội sang Úc và Nhật học kỹ thuật nội soi. Khi trở về, chúng tôi tiếp tục mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác: nội soi dây V, dây VII, dây IX–X, điều trị u biểu bì, u màng não, nang nhện… Mỗi năm, chúng tôi lại tiến thêm một bước trên hành trình làm chủ kỹ thuật nội soi thần kinh tại Việt Nam. Ngọc Minh: Nghe ông kể, rõ ràng con đường ấy không hề dễ dàng. Vậy khó khăn lớn nhất thời điểm đó là gì? PGS.TS Đồng Văn Hệ: Khó khăn lớn nhất là thiết bị và kinh phí. Một hệ thống nội soi hoàn chỉnh cho phẫu thuật não có giá hàng trăm nghìn USD. Khi chưa có điều kiện, chúng tôi mượn hoặc được bạn bè quốc tế cho dụng cụ. Suốt cả chục năm, chúng tôi chỉ làm được những ca đơn giản. Sau này, khi được đầu tư thiết bị hiện đại, chúng tôi mới có thể thực hiện nhiều ca phức tạp hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, chúng tôi phải tự mày mò, thậm chí… tự chế tạo. Chẳng hạn, giá đỡ ống

Thuốc phối hợp mới giúp giảm 40% nguy cơ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt

Một bước tiến đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt vừa được công bố, mở ra hy vọng mới cho hàng triệu nam giới trên toàn cầu – đặc biệt là những người bị tái phát sau phẫu thuật hoặc xạ trị. Kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III cho thấy sự kết hợp giữa hai loại thuốc đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận, enzalutamide và leuprolide, có thể giảm gần 40% nguy cơ tử vong ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tại chỗ. Ung thư tuyến tiền liệt – căn bệnh phổ biến ở nam giới Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư thường gặp nhất ở nam giới trên toàn thế giới. Phẫu thuật và xạ trị hiện là hai phương pháp điều trị chính giúp nhiều bệnh nhân có thể khỏi bệnh hoàn toàn. Tuy nhiên, khoảng một phần ba số bệnh nhân vẫn bị tái phát ung thư, thường được phát hiện qua sự gia tăng nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) – một dấu ấn sinh học cho thấy tế bào ung thư đang hoạt động trở lại, ngay cả khi bệnh chưa biểu hiện triệu chứng. Bệnh nhân có thời gian PSA tăng gấp đôi trong 9 tháng hoặc ngắn hơn được xem là nhóm nguy cơ cao, có khả năng ung thư sẽ di căn đến các cơ quan khác, đặc biệt là xương. Trong khi đó, các lựa chọn điều trị cho nhóm bệnh nhân này hiện vẫn còn hạn chế, khiến việc kiểm soát bệnh hiệu quả trở thành một thách thức lớn đối với y học. Một loại thuốc phối hợp mới làm giảm 40% nguy cơ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt. Thử nghiệm EMBARK giai đoạn III – bước ngoặt trong điều trị Những phát hiện mới đến từ thử nghiệm EMBARK giai đoạn III, được công bố mới đây trên Tạp chí Y học New England (The New England Journal of Medicine). Nghiên cứu được tài trợ bởi Pfizer và Astellas Pharma, tuyển chọn hơn 1.000 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao tại 244 trung tâm ở 17 quốc gia. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm điều trị: Leuprolide đơn trị Enzalutamide đơn trị Phối hợp enzalutamide và leuprolide Hai cơ chế khác biệt – hiệu quả cộng hưởng Enzalutamide là thuốc chẹn thụ thể androgen, giúp ngăn tế bào ung thư sử dụng hormone nam (testosterone) để phát triển. Leuprolide là liệu pháp hormone có tác dụng ức chế sản xuất testosterone trong cơ thể. Trước đây, sự kết hợp giữa hai loại thuốc này đã được FDA phê duyệt cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn. Tuy nhiên, nghiên cứu EMBARK đặt ra câu hỏi: Liệu dùng phối hợp này sớm hơn, trước khi bệnh di căn, có thể kéo dài tuổi thọ cho người bệnh hay không. Kết quả nổi bật: Giảm gần 40% nguy cơ tử vong Sau 8 năm theo dõi, kết quả cho thấy: Nhóm điều trị phối hợp (enzalutamide + leuprolide) có tỷ lệ sống sót chung là 78,9%. Nhóm chỉ dùng leuprolide có tỷ lệ sống sót 69,5%. Điều này tương đương với mức giảm nguy cơ tử vong gần 40%. Nhóm chỉ dùng enzalutamide đơn độc có tỷ lệ sống 73%, không khác biệt đáng kể so với nhóm leuprolide đơn trị. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng liệu pháp phối hợp không chỉ giúp làm chậm tiến triển bệnh như các thử nghiệm trước đây đã chỉ ra, mà còn kéo dài đáng kể tuổi thọ của bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao. Tính an toàn và dung nạp Nhìn chung, các phản ứng phụ trong thử nghiệm phù hợp với những gì đã được ghi nhận ở các nghiên cứu trước. Các tác dụng không mong muốn thường gặp bao gồm mệt mỏi, bốc hỏa, giảm ham muốn tình dục và đau khớp. Dù vậy, tỷ lệ bệnh nhân phải ngừng điều trị do tác dụng phụ là thấp và không có biến cố nghiêm trọng mới được ghi nhận. Một hạn chế được các tác giả nêu rõ là thử nghiệm không sử dụng kỹ thuật chụp PET PSMA – phương pháp hình ảnh tiên tiến có thể phát hiện các ổ di căn nhỏ mà các kỹ thuật truyền thống bỏ sót. Điều này đồng nghĩa với khả năng một số bệnh nhân có thể đã có di căn chưa được phát hiện, ảnh hưởng đến cách phân nhóm và đánh giá kết quả. Tuy nhiên, chính yếu tố này cũng củng cố giả thuyết rằng liệu pháp kết hợp có thể hiệu quả ngay cả ở giai đoạn rất sớm của bệnh, khi tế bào ung thư chưa lan rộng rõ ràng trên hình ảnh học. Kỳ vọng mới trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt Những kết quả của thử nghiệm EMBARK mang lại cơ sở vững chắc để thay đổi cách tiếp cận điều trị ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao. Sự phối hợp giữa enzalutamide và leuprolide cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc kéo dài thời gian sống và giảm tỷ lệ tử vong, mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng cho bệnh nhân. Nếu được ứng dụng rộng rãi, phác đồ này có thể trở thành tiêu chuẩn điều trị mới, giúp hàng nghìn nam giới trên thế giới có cơ hội sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn trong cuộc chiến chống lại căn bệnh ung thư phổ biến này. https://suckhoedoisong.vn/thuoc-phoi-hop-moi-giup-giam-40-nguy-co-tu-vong-do-ung-thu-tuyen-tien-liet-169251022163310915.htm

Bước tiến mới trong điều trị u phì đại tuyến tiền liệt bằng liệu pháp nhiệt hơi nước

Lần đầu tiên chinh phục kỹ thuật liệu pháp nhiệt hơi nước Trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Hội Tiết niệu-Thận học Việt Nam khu vực phía Bắc (VUNA-North), dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn – Trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai đã triển khai thành công 2 ca mổ thị phạm sử dụng liệu pháp nhiệt hơi nước (Rezūm) – phương pháp điều trị BPH ít xâm lấn nhất và mới nhất hiện nay trên toàn cầu. Hai ca mổ thị phạm được truyền hình trực tiếp với sự tham dự của nhiều giáo sư, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, cùng các bác sĩ chuyên khoa tiết niệu từ các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh đến tham dự, quan sát và học tập kỹ thuật mới. Sau phẫu thuật, 2 bệnh nhân có kết quả rất khả quan: Nước tiểu qua sonde thông ngay sau mổ, không sốt, không đau, không khó chịu. Cả 2 đều hài lòng và được xuất viện an toàn chỉ sau một ngày theo dõi. Thành công này, được thực hiện bởi Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn, một trong hai bác sĩ Việt Nam đầu tiên được đào tạo bài bản về Rezūm ở nước ngoài, đã khẳng định Bệnh viện Bạch Mai hoàn toàn làm chủ công nghệ. Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn, nhiều nam giới lớn tuổi phải sống chung với tình trạng dòng tiểu yếu, ngắt quãng, tiểu đêm nhiều lần – những triệu chứng khiến giấc ngủ bị gián đoạn và mệt mỏi kéo dài, dù đã điều trị nội khoa trong thời gian dài nhưng không cải thiện đáng kể. Khi các triệu chứng trở nên nghiêm trọng (thang điểm IPSS cao, như hai trường hợp điển hình được can thiệp với điểm lần lượt là 32 và 26), can thiệp ngoại khoa là điều không thể tránh khỏi. Bác sĩ Tuấn cho biết, trước đây, các phương pháp phẫu thuật truyền thống như cắt nội soi (TURP) hay bốc hơi bằng laser dù hiệu quả, vẫn tiềm ẩn các hạn chế như nguy cơ chảy máu, rối loạn xuất tinh, hoặc thời gian hồi phục kéo dài. Đặc biệt, những rủi ro này càng lớn hơn ở người cao tuổi có nhiều bệnh lý nền phức tạp như tim mạch, hô hấp. Nội soi trong quá trình thực hiện liệu pháp nhiệt hơi nước (Rezūm) tại Bệnh viện Bạch Mai. Cuộc cách mạng trong điều trị cho bệnh nhân u phì đại lành tính tuyến tiền liệt Liệu pháp Rezūm (Convective Water Vapor Thermal Therapy) được coi là một cuộc cách mạng với nhiều ưu điểm. Theo đó, kỹ thuật sử dụng năng lượng nhiệt từ hơi nước ở khoảng 103 độ C. Hơi nước được đưa chính xác vào mô tuyến tiền liệt phì đại, phá hủy có chọn lọc phần mô bệnh mà không cần cắt bỏ. Mô hoại tử sẽ được cơ thể hấp thu tự nhiên theo thời gian, giúp giải phóng tắc nghẽn và cải thiện dòng tiểu. Phương pháp này có ưu điểm vượt trội nhất là bảo tồn tối đa chức năng tình dục nam giới, một yếu tố thường bị ảnh hưởng đáng kể bởi phẫu thuật truyền thống. Đây là kỹ thuật ít xâm lấn, thời gian thực hiện chỉ 10-15 phút, không cần gây mê sâu, bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày đầu tiên sau phẫu thuật. Ưu điểm nổi bật của liệu pháp này là ít xâm lấn, an toàn, thời gian thực hiện ngắn (trung bình chỉ 10-15 phút), không cần gây mê sâu, có thể thực hiện trên bệnh nhân có nhiều bệnh nền, hồi phục nhanh, người bệnh có thể ra viện ngay trong ngày đầu tiên sau phẫu thuật, và bảo tồn tốt chức năng tình dục – yếu tố từng khiến nhiều bệnh nhân lo lắng khi tìm hiểu các phương pháp phẫu thuật tuyến tiền liệt truyền thống. Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn cho biết, liệu pháp nhiệt hơi nước mở ra hướng điều trị mới cho bệnh nhân u phì đại tuyến tiền liệt, đặc biệt là nhóm bệnh nhân đang còn nhu cầu sinh hoạt tình dục, hoặc nhóm bệnh nhân có những bệnh lý nền nặng, không chịu được gây mê toàn thân hay các cuộc mổ u phì đại truyền thống với thời gian kéo dài. Với cơ chế điều trị chọn lọc, không can thiệp vào hệ mạch, Rezūm còn là giải pháp an toàn hơn cho nhiều đối tượng người bệnh. Với bệnh nhân tim mạch, phương pháp này giúp những người có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch hoặc đang dùng thuốc chống đông máu có thêm lựa chọn điều trị. Với trường hợp phức tạp, có thể áp dụng cho cả những bệnh nhân có bệnh lý mạch máu phức tạp mà phương pháp nút mạch truyền thống không thực hiện được. Việc triển khai Rezūm không chỉ đánh dấu bước tiến mới trong y học Việt Nam mà còn củng cố vị thế Bệnh viện Bạch Mai là trung tâm tiên phong trong đào tạo, chuyển giao và ứng dụng các kỹ thuật hàng đầu, mang lại lựa chọn an toàn, hiệu quả, giúp bảo tồn tối đa chức năng sinh lý cho người bệnh Việt Nam. Người bệnh thường chỉ cần đặt sonde tiểu khoảng 7-10 ngày và có thể sớm trở lại sinh hoạt bình thường ngay sau đó. https://nhandan.vn/buoc-tien-moi-trong-dieu-tri-u-phi-dai-tuyen-tien-liet-bang-lieu-phap-nhiet-hoi-nuoc-post914970.html

Bệnh nhân đầu tiên tại Việt Nam được ghép thận tự thân

Ngày 10/10, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thông tin các bác sĩ tại đây vừa thực hiện thành công kĩ thuật ghép thận tự thân – một bước tiến đột phá của y học và là ca đầu tiên được ghi nhận tại Việt Nam. Nữ bệnh nhân 37 tuổi, đến từ Phú Yên (cũ) đã được các bác sĩ phẫu thuật xử lí khối phình khổng lồ động mạch thận tại rốn thận bằng kĩ thuật ghép thận tự thân. Theo chia sẻ của bệnh nhân, khoảng hai tháng trước, chị xuất hiện cơn đau vùng thắt lưng trái, đôi khi quặn thành từng cơn nhưng không sốt. Sau khi thăm khám ở nhiều bệnh viện lớn phía Nam, bệnh nhân được chẩn đoán mắc phình khổng lồ động mạch thận trái tại rốn thận và được khuyến cáo cắt bỏ thận. Với mong muốn tìm giải pháp bảo tồn, bệnh nhân tìm đến TS. Ngô Vi Hải, Chủ nhiệm Khoa Ngoại lồng ngực, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 để được tư vấn điều trị. Qua thăm khám và chẩn đoán hình ảnh, TS. Ngô Vi Hải xác định bệnh nhân có túi phình động mạch thận trái kích thước gần 5 cm, đã gây đau là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ vỡ túi phình. Khối phình nằm ở rốn thận, nơi xuất phát của các nhánh động mạch quan trọng cho thận, khiến việc đặt stent không khả thi. “Đây là vị trí cực kỳ phức tạp, không thể sửa chữa khi thận còn trong cơ thể. Giải pháp khả thi duy nhất là cắt thận ra ngoài, tái tạo mạch máu, sau đó ghép trở lại”, TS. Hải cho biết. Kíp mổ gồm các bác sĩ hai chuyên ngành tiết niệu trên và phẫu thuật mạch máu đã thống nhất phương án phẫu thuật nội soi cắt thận, bảo tồn thận theo kĩ thuật lấy thận ghép. Sau khi lấy thận ra khỏi cơ thể, khối phình được loại bỏ và động mạch thận được tái tạo bên ngoài bằng tĩnh mạch hiển tự thân. Khi tái tạo xong, quả thận được ghép trở lại vào hố chậu cùng bên theo kĩ thuật ghép thận thường quy. TS. Nguyễn Việt Hải, Chủ nhiệm Khoa Tiết niệu trên, người trực tiếp tham gia phẫu thuật, chia sẻ: “Với loại tổn thương này, thời gian thiếu máu nóng của thận không thể vượt quá 20-30 phút. Chúng tôi phải bảo vệ thận bằng kĩ thuật ghép thận, vừa đảm bảo điều kiện tái tạo mạch máu, vừa giữ được chức năng của cơ quan”. Ca phẫu thuật kéo dài gần 4 giờ đồng hồ diễn ra thuận lợi. Sau mổ, quả thận ghép hoạt động tốt, tưới máu ổn định, được xác nhận qua siêu âm và chụp mạch. Bệnh nhân hồi phục nhanh, có thể tự phục vụ và đi lại bình thường. Đặc biệt, do là ghép thận tự thân nên người bệnh không phải dùng thuốc chống thải ghép hay thuốc ức chế miễn dịch. Hiện sức khỏe bệnh nhân ổn định, chức năng thận duy trì tốt. Trên thế giới, chỉ có rất ít trường hợp tương tự được thực hiện, và tại Việt Nam, đây là ca đầu tiên được ghi nhận thành công. “Thành công của ca phẫu thuật không chỉ mang ý nghĩa y học mà còn thể hiện tinh thần sáng tạo, sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa trong bệnh viện. Điều này mở ra hướng điều trị mới cho những trường hợp tổn thương thận phức tạp mà trước đây tưởng như không thể bảo tồn”, TS. Ngô Vi Hải nhấn mạnh. Ca phẫu thuật thành công một lần nữa khẳng định thế mạnh ghép tạng của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 – đơn vị tiên phong trong ứng dụng kĩ thuật cao, sẵn sàng đón nhận và chinh phục những ca bệnh khó, góp phần nâng tầm y học Việt Nam trên bản đồ khu vực. https://tienphong.vn/benh-nhan-dau-tien-tai-viet-nam-duoc-ghep-than-tu-than-post1785991.tpo

Bệnh viện Thống Nhất ứng dụng công nghệ mới điều trị thoái hóa khớp gối

Bệnh viện Thống Nhất vừa thực hiện thành công ca phẫu thuật nội soi điều trị thoái hóa khớp gối bằng phương pháp điều trị ít xâm lấn, gia tăng khả năng tái tạo sụn khớp cho bệnh nhân 55 tuổi. Trước đó, bệnh nhân V. nhập viện trong tình trạng đau nhức, hạn chế vận động khớp gối. Kết quả thăm khám và chẩn đoán hình ảnh ghi nhận thoái hóa khớp gối giai đoạn 2, kèm tổn thương sụn và dây chằng. Các bác sĩ đã tiến hành nội soi cắt lọc, làm sạch khớp, đồng thời kết hợp ứng dụng keo Fibrin tự thân giàu tiểu cầu Platelet Rich Fibrin (PRF)-đây là một loại keo tự thân được chiết tách từ chính máu của bệnh nhân. Phẫu thuật nội soi cắt lọc khớp gối và bơm PRF. Từ 240ml máu ngoại vi của người bệnh, bác sĩ tách chiết được 10,9ml PRF, sau đó bơm trực tiếp vào các vị trí tổn thương trong quá trình nội soi cả hai khớp gối. Keo PRF được tạo từ chính máu của bệnh nhân nên hoàn toàn an toàn, không lo lây nhiễm hay phản ứng đào thải. Trong keo có rất nhiều yếu tố giúp tăng tốc độ phục hồi giúp kích thích tạo mạch máu mới, tái tạo sụn, hình thành mô mới. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thành Toàn thăm khám bệnh nhân sau ca mổ. Fibrin trong keo giống một lớp khung đỡ tự nhiên giữ lại tiểu cầu và từ từ giải phóng các chất có lợi. Nhờ vậy vùng tổn thương được giảm đau, cầm máu, vừa có điều kiện để các tế bào mới phát triển và tái tạo. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thành Toàn, Phó Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất, Trưởng Khoa Ngoại chấn thương khớp, cho biết: “PRF có thể duy trì tác dụng kéo dài từ 7-14 ngày sau phẫu thuật giúp bệnh nhân phục hồi nhanh, sớm đi lại và giảm chi phí điều trị”. Sau mổ ngày thứ ba, bệnh nhân V. không còn đau và sưng nề ở hai gối, vết mổ khô, tập gồng cơ, gấp duỗi gối bình thường. Bệnh nhân hồi phục tốt sau ca mổ ít xâm lấn. Theo Bệnh viện Thống Nhất, thoái hóa khớp là bệnh lý mạn tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Do đó, việc kết hợp phẫu thuật nội soi với ứng dụng keo PRF tự thân đã mở ra hướng điều trị an toàn, ít xâm lấn, gia tăng khả năng tái tạo sụn khớp, mang đến cơ hội phục hồi vận động tốt hơn cho người bệnh. https://nhandan.vn/benh-vien-thong-nhat-ung-dung-cong-nghe-moi-dieu-tri-thoai-hoa-khop-goi-post911743.html

Việt Nam điều trị ca ung thư máu đầu tiên thành công với liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T

Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP Hồ Chí Minh lần đầu tiên điều trị thành công cho bé gái mắc ung thư máu với liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T. Với sự phối hợp của các chuyên gia đến từ Đài Loan (Trung Quốc), Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP Hồ Chí Minh lần đầu tiên điều trị thành công trường hợp mắc bệnh ung thư máu bằng liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T. Đây là phương pháp điều trị ung thư mới và khó nhất hiện nay. Đây là thông tin được Giáo sư, Tiến sỹ, bác sỹ Phù Chí Dũng, Giám đốc Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh chia sẻ tại 3 hội nghị diễn ra đồng thời là Hội nghị Truyền máu – Huyết học Việt Nam lần 8, Hội nghị Truyền máu-ghép-liệu pháp tế bào Việt Pháp mở rộng lần 8 và Hội nghị Ghép tế bào gốc tủy xương và máu châu Á-Thái Bình Dương lần 30, khai mạc ngày 16/9 tại TP Hồ Chí Minh. Bác sỹ Phù Chí Dũng chia sẻ bệnh nhân là một bé gái (12 tuổi) được chẩn đoán mắc bạch cầu cấp lympho B, nhóm nguy cơ cao. Sau khi được hóa trị, bệnh nhân bị tái phát lần đầu, sau đó được ghép tủy nửa thuận hợp từ người cha nhưng vẫn tái phát lần thứ hai. Các bác sỹ Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh đã phối hợp cùng các chuyên gia Đài Loan (Trung Quốc) sử dụng liệu pháp CAR-T (liệu pháp miễn dịch sử dụng tế bào T của chính bệnh nhân được biến đổi gen trong phòng thí nghiệm để chúng có khả năng nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư). Sau hơn 1 năm truyền tế bào CAR-T, hiện sức khỏe của bệnh nhân ổn định và vẫn đang được tiếp tục điều trị, theo dõi tại Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh. Đây là ca bệnh đầu tiên tại Việt Nam áp dụng liệu pháp tế bào CAR-T để điều trị ung thư máu. Liệu pháp miễn dịch CAR-T còn gọi là liệu pháp tế bào CAR-T được xem là một bước đột phá lớn nhất trong lĩnh vực điều trị ung thư, đặc biệt là ung thư máu. Phương pháp này mang nhiều ưu điểm vượt trội so với các phương pháp điều trị truyền thống, ít tác dụng phụ, hiệu quả điều trị cao, kéo dài sự sống cho người bệnh và chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể sau khi điều trị. Đặc biệt, liệu pháp CAR-T có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch lâu dài, giúp giảm nguy cơ tái phát bệnh. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay của liệu pháp CART-T là chi phí điều trị rất cao, quá trình sản xuất tế bào CAR-T đòi hỏi công nghệ phức tạp và các thiết bị hiện đại. Hiện Bệnh viện Truyền máu-Huyết học Thành phố Hồ Chí Minh đang tích cực chuẩn bị về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự (bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên được cấp chứng nhận) và sự hỗ trợ của chuyên gia nước ngoài để tự sản xuất tế bào CAR-T tại Việt Nam. Bác sỹ Phù Chí Dũng ước tính, nếu tự sản xuất được tế bào CAR-T tại Việt Nam thì chi phí điều trị có thể giảm xuống khoảng 20 lần so với ra nước ngoài điều trị (xuống còn dưới 500 triệu đồng/ca bệnh). Ngoài ra, tại 3 hội nghị năm nay còn có hơn 200 báo cáo của các chuyên gia trong lĩnh vực truyền máu, huyết học của Việt Nam và quốc tế. Các nội dung báo cáo là các nghiên cứu khoa học mới nhất, tập trung vào các nội dung chính như: truyền máu, bệnh lý huyết học, hóa trị liệu, ghép tế bào gốc tạo máu, liệu pháp trúng đích, liệu pháp tế bào, liệu pháp gene, kháng thể đơn dòng, nhiễm trùng, ngân hàng tế bào gốc, tế bào gốc trung mô, ngân hàng máu, quản lý chất lượng, điều dưỡng. Diễn ra từ ngày 16-20/9, Hội nghị Truyền máu-Huyết học Việt Nam lần 8, Hội nghị Truyền máu-ghép-liệu pháp tế bào Việt Pháp mở rộng lần 8 và Hội nghị Ghép tế bào gốc tủy xương và máu châu Á-Thái Bình Dương lần 30 thu hút sự tham gia của gần 2.000 đại biểu, trong đó có gần 350 đại biểu quốc tế. https://dangcongsan.org.vn/haiphong/tin-tuc-hoat-dong/viet-nam-dieu-tri-ca-ung-thu-mau-dau-tien-thanh-cong-voi-lieu-phap-te-bao-mien-dich-car-t.html

Kỳ tích y khoa: Bệnh viện Bạch Mai và BVĐK Vĩnh Phúc cứu sống bệnh nhân ngừng tim 60 phút

90 phút “Thần tốc” tạo nên kỳ tích cứu sống người bệnh Bệnh nhân nữ, 47 tuổi, tiền sử u lành tính tuyến vú phải đã được phẫu thuật, chưa phát hiện bệnh lý tim mạch mạn tính. Bệnh nhân vào BVĐK Vĩnh Phúc do cơn đau ngực trái cấp tính khởi phát 4 giờ trước. Tại đây, người bệnh được chẩn đoán: Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên (STEMI) giờ thứ 4 – một cấp cứu tim mạch với nguy cơ tử vong cao nếu không được xử trí kịp thời. Bệnh nhân được chụp mạch vành qua da cấp cứu, phát hiện tắc hoàn toàn động mạch liên thất trước (LAD) và tiến hành can thiệp đặt stent động mạch vành, dòng chảy sau can thiệp tốt. Sau can thiệp, người bệnh được chuyển về bệnh phòng tiếp tục theo dõi sát. Trong lúc đang được theo dõi sau can thiệp, bệnh nhân đột ngột xuất hiện mất ý thức, trên máy theo dõi là hình ảnh rung thất – Rối loạn nhịp nguy kịch gây ngừng tuần hoàn. Người bệnh được hồi sức tim phổi, ép tim ngoài lồng ngực, sốc điện nhiều lần với tổng thời gian ngừng tim phải tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn 60 phút. Sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, người bệnh có mạch trở lại. Tuy nhiên, bệnh nhân rơi vào tình trạng sốc tim rất nặng, chức năng tim giảm nhiều, huyết áp tụt sâu, phải dùng ba loại vận mạch liều cao, nguy cơ tử vong rất cao. Ngay lập tức, BVĐK Vĩnh Phúc đã phát đi “tín hiệu” kêu gọi sự hỗ trợ từ Bệnh viện Bạch Mai. Lúc này, sức mạnh của sự phối hợp liên viện và năng lực chỉ đạo của Bệnh viện tuyến Trung ương đã phát huy tối đa. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt và thần tốc của PGS.TS Đào Xuân Cơ –  Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, chỉ sau 1,5 giờ nhận được yêu cầu hỗ trợ từ Vĩnh Phúc, một ê-kip chuyên gia ECMO tinh nhuệ đã có mặt tại chỗ. Ê-kíp bao gồm: BSCKII. Nguyễn Bá Cường, Trung tâm Hồi sức Tích cực; ThS.BS. Hoàng Tuấn Phong và ThS.BS. Võ Duy Văn – Viện Tim mạch Quốc gia. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai bệnh viện, hệ thống ECMO đã nhanh chóng được thiết lập ngay tại Vĩnh Phúc, kịp thời thay thế chức năng tim – phổi suy yếu của bệnh nhân, giành giật sự sống từ tay tử thần. Sự phản ứng “thần tốc” không phải ngẫu nhiên. Nó là kết quả của sự chỉ đạo xây dựng một cơ chế phối hợp liên viện linh hoạt, hiệu quả dưới sự điều hành của PGS.TS. Đào Xuân Cơ. Ông nhấn mạnh: Bệnh viện Bạch Mai với vai trò đầu ngành phải luôn sẵn sàng ở tư thế “ứng chiến” cao nhất. Chúng tôi đã xây dựng các ê-kip chuyên sâu luôn túc trực, quy trình vận hành tinh gọn và sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nòng cốt như Trung tâm Hồi sức Tích cực và Viện Tim mạch Quốc gia để có thể hỗ trợ toàn quốc một cách nhanh chóng nhất khi có yêu cầu. Từ Hành trình hồi sinh đến Tầm nhìn chiến lược Quốc gia Sau khi được ECMO hỗ trợ, bệnh nhân được chuyển về Trung tâm Hồi sức Tích cực (HSTC) Bệnh viện Bạch Mai để tiếp tục cuộc chiến giành lại sự sống từ tay tử thần. Tại đây, dưới sự điều trị tận tâm của BS. Hồ Đức Triều và ê-kíp HSTC, cùng sự phối hợp đa chuyên khoa chặt chẽ (Tim mạch, Dược lâm sàng, Dinh dưỡng, Phục hồi chức năng), bệnh nhân đã vượt qua những giai đoạn nguy kịch, ngàn cân treo sợi tóc như sốc tim trầm trọng và nhiễm khuẩn nặng. Nhờ tinh thần trách nhiệm cao, sự phối hợp chuyên môn nhịp nhàng và tinh thần không bỏ cuộc, người bệnh đã có những chuyển biến tích cực. Sau 4 ngày điều trị, bệnh nhân được rút ECMO thành công. Sau 14 ngày điều trị tích cực, bệnh nhân đã hồi phục tốt, chức năng tim cải thiện rõ rệt và đủ điều kiện xuất viện. Thành công này không chỉ là một kỳ tích đơn lẻ mà còn là một bước đi chiến lược, như PGS.TS. Đào Xuân Cơ – Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai đã khẳng định: “Hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới triển khai thành công kỹ thuật cao như ECMO không đơn thuần là giải quyết một ca bệnh khó. Đó là nhiệm vụ chiến lược nhằm từng bước nâng cao năng lực chuyên môn cho y tế địa phương, giúp người dân được tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao ngay tại tuyến tỉnh, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên và giảm nguy cơ cho người bệnh khi phải vận chuyển xa”. Phó giáo sư Xuân Cơ cũng chỉ ra rằng thành công của kỹ thuật ECMO không chỉ phụ thuộc vào máy móc hiện đại. Yếu tố quan trọng hơn cả là hệ thống tổ chức, con người được đào tạo bài bản, sự phối hợp đa chuyên khoa nhịp nhàng và một quy trình chuẩn hóa. Ca bệnh tại Vĩnh Phúc chính là minh chứng sống động cho thấy, với sự hỗ trợ chuyên môn sâu, kịp thời từ tuyến trung ương và sự quyết tâm của địa phương, kỹ thuật này hoàn toàn có thể triển khai hiệu quả tại tuyến tỉnh. Thành công của ca ECMO tại Vĩnh Phúc là một tín hiệu đáng mừng cho cả hệ thống y tế, hứa hẹn một tương lai người dân trên mọi miền Tổ quốc đều được tiếp cận những dịch vụ y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao với chất lượng tốt nhất. Tinh thần “Không bao giờ từ bỏ dù hy

Thêm kỳ tích của ngành y Việt Nam: Lần đầu tiên ghép thành công đồng thời tim – phổi cho người bệnh suy đa tạng

Sự thành công của ca ghép đồng thời tim – phổi cho bệnh nhân suy đa tạng mở ra một dấu mốc quan trọng, khẳng định bước tiến vượt bậc của BV Hữu nghị Việt Đức trong lĩnh vực ghép đa tạng, đồng thời đặt dấu mốc cho y học Việt Nam trên bản đồ thế giới, mở ra nhiều cơ hội cứu sống người bệnh nguy kịch. TS.BS Dương Đức Hùng – Giám đốc BV Hữu nghị Việt Đức đã xúc động chia sẻ thông tin trên với báo chí… Ca ghép khối tim – phổi đầu tiên kéo dài 7 giờ, hơn 40 chuyên gia tham gia trực tiếp… Cách đây hơn 3 tuần, người bệnh Trần Như Q (38 tuổi) bước vào ca ghép đa tạng đầu tiên trong lịch sử ghép tạng của Việt Nam – ghép khối tim – phổi đồng thời. Trước đó, nữ bệnh nhân có tiền sử: thông liên nhĩ – tăng áp động mạch phổi nặng đã bít dù thông liên nhĩ tại Bệnh viện Tim Hà Nội năm 2011, không theo dõi thường xuyên, mới dùng thuốc được 1 năm trở lại, bệnh nhân không có tiền sử tai biến mạch máu não. PGS. TS Phạm Hữu Lư – Phó Trưởng Khoa Ngoại Tim mạch và Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch, BV Hữu nghị Việt Đức cho biết, bệnh nhân vào viện được chẩn đoán: hội chứng eisenmenger – suy thất phải không hồi phục – hở ba lá nặng/ tiền sử bít dù thông liên nhĩ, khả năng tử vong tính theo ngày, có chỉ định ghép cả tim và phổi đồng thời dù không kịp thời gian điều trị suy dinh dưỡng và phổi người hiến có nhiễm khuẩn Acinetor baummani và to hơn lồng ngực người nhận. “Chúng tôi đã hội chẩn liên chuyên khoa, bởi để thực hiện kỹ thuật ghép đồng thời khối tim – phổi cải tiến phải có sự phối hợp liên chuyên khoa: Nội tim mạch lồng ngực, gây mê – hồi sức, ngoại, phục hồi chức năng, dinh dưỡng …”- TS Lư nói. Trong ca phẫu thuật kéo dài 7 tiếng liên tục, các chuyên gia của BV Hữu nghị Việt Đức phải sử dụng hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể thay thế tạm thời tim và phổi trong suốt thời gian đó. Để đảm bảo tim hoạt động tốt nhưng cần tránh truyền nhiều dịch gây phù phổi, dùng ít thuốc mê và đưa vào các phương tiện theo dõi huyết động tiên tiến nhất. Các bác sĩ cũng tiến hành cắt bớt phổi hai bên cho vừa, nối hai phế quản gốc thay vì nối khí quản theo kinh điển để tưới máu miệng nối tốt hơn, soi phế quản ống mềm trong mổ đánh giá 2 miệng nối phế quản gốc. Khối tim – phổi của người hiến được chuẩn bị đưa vào ghép cho bệnh nhân. Theo TS Hùng, đây là ca bệnh đặc biệt hiếm gặp, đòi hỏi sự phối hợp liên chuyên khoa, áp dụng những kỹ thuật phẫu thuật và hồi sức tiên tiến hàng đầu hiện nay. “Ghép khối tim – phổi là một kỹ thuật y học tiên tiến, trong đó cả tim và hai phổi của người bệnh được thay thế đồng thời bằng tim và hai phổi khỏe mạnh từ người hiến tạng phù hợp. Đây là giải pháp điều trị cuối cùng cho các bệnh nhân mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối, khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả”- TS.BS Dương Đức Hùng nói và cho biết thêm: Ca phẫu thuật này đòi hỏi kỹ thuật cao, phối hợp nhiều chuyên khoa và hệ thống hồi sức, chăm sóc sau mổ đặc biệt. Tiếp tục ‘cắm cờ đỏ sao vàng’ của Việt Nam trên bản đồ ghép đa tạng, đặc biệt là trong ghép đồng thời tim – phổi Ông Hùng cũng thông tin, trên thế giới, ghép khối tim – phổi được thực hiện rất ít do yêu cầu nguồn tạng hiếm, quy trình phẫu thuật phức tạp và nguy cơ biến chứng cao; được chỉ định cho những trường hợp mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả. Thành công của ca ghép đồng thời tim – phổi không chỉ đánh dấu bước tiến vượt bậc trong năng lực ghép tạng, đặc biệt là ghép đa tạng, mà còn khẳng định trình độ chuyên môn của đội ngũ y tế Việt Nam trong lĩnh vực ngoại khoa. Thành tựu này mở ra cơ hội sống và hướng điều trị mới cho những bệnh nhân mắc bệnh tim – phổi giai đoạn cuối. “Tính từ ngày thực hiện ca ghép, hôm nay tròn 24 ngày. Thời gian qua thực sự là những ngày ‘căng với ekip hồi sức và phẫu thuật viên tham gia thực hiện ca ghép đa tạng này. Đến hôm nay chúng tôi mới cảm giác như nhẹ người hơn Với thành công của ca ghép khối tim – phổi này, chúng tôi đã tiếp tục cắm cờ đỏ sao vàng của Việt Nam trên bản đồ ghép đa tạng, đặc biệt là trong ghép đồng thời tim – phổi bởi hiện nay ghép khối tim – phổi rất ít. Do yêu cầu nguồn tạng hiếm và kỹ thuật cực kỳ phức tạp, mỗi năm toàn thế giới chỉ thực hiện khoảng 100 ca ghép như này”- TS.BS Đương Dức Hùng chia sẻ. Các tình huống thường gặp gồm: bệnh tim bẩm sinh phức tạp kèm tăng áp động mạch phổi kiểu Eisenmenger; tăng áp động mạch phổi nặng đã gây suy tim phải không hồi phục; hoặc bệnh phổi giai đoạn cuối kèm bệnh tim trái không thể sửa chữa. Do yêu cầu nguồn tạng hiếm và kỹ thuật cực kỳ phức tạp, mỗi năm

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám