BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Hoạt Động Nghiên Cứu

Hoạt Động Nghiên Cứu

Thuốc phối hợp mới giúp giảm 40% nguy cơ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt

Một bước tiến đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt vừa được công bố, mở ra hy vọng mới cho hàng triệu nam giới trên toàn cầu – đặc biệt là những người bị tái phát sau phẫu thuật hoặc xạ trị. Kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III cho thấy sự kết hợp giữa hai loại thuốc đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận, enzalutamide và leuprolide, có thể giảm gần 40% nguy cơ tử vong ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tại chỗ. Ung thư tuyến tiền liệt – căn bệnh phổ biến ở nam giới Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư thường gặp nhất ở nam giới trên toàn thế giới. Phẫu thuật và xạ trị hiện là hai phương pháp điều trị chính giúp nhiều bệnh nhân có thể khỏi bệnh hoàn toàn. Tuy nhiên, khoảng một phần ba số bệnh nhân vẫn bị tái phát ung thư, thường được phát hiện qua sự gia tăng nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) – một dấu ấn sinh học cho thấy tế bào ung thư đang hoạt động trở lại, ngay cả khi bệnh chưa biểu hiện triệu chứng. Bệnh nhân có thời gian PSA tăng gấp đôi trong 9 tháng hoặc ngắn hơn được xem là nhóm nguy cơ cao, có khả năng ung thư sẽ di căn đến các cơ quan khác, đặc biệt là xương. Trong khi đó, các lựa chọn điều trị cho nhóm bệnh nhân này hiện vẫn còn hạn chế, khiến việc kiểm soát bệnh hiệu quả trở thành một thách thức lớn đối với y học. Một loại thuốc phối hợp mới làm giảm 40% nguy cơ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt. Thử nghiệm EMBARK giai đoạn III – bước ngoặt trong điều trị Những phát hiện mới đến từ thử nghiệm EMBARK giai đoạn III, được công bố mới đây trên Tạp chí Y học New England (The New England Journal of Medicine). Nghiên cứu được tài trợ bởi Pfizer và Astellas Pharma, tuyển chọn hơn 1.000 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao tại 244 trung tâm ở 17 quốc gia. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm điều trị: Leuprolide đơn trị Enzalutamide đơn trị Phối hợp enzalutamide và leuprolide Hai cơ chế khác biệt – hiệu quả cộng hưởng Enzalutamide là thuốc chẹn thụ thể androgen, giúp ngăn tế bào ung thư sử dụng hormone nam (testosterone) để phát triển. Leuprolide là liệu pháp hormone có tác dụng ức chế sản xuất testosterone trong cơ thể. Trước đây, sự kết hợp giữa hai loại thuốc này đã được FDA phê duyệt cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn. Tuy nhiên, nghiên cứu EMBARK đặt ra câu hỏi: Liệu dùng phối hợp này sớm hơn, trước khi bệnh di căn, có thể kéo dài tuổi thọ cho người bệnh hay không. Kết quả nổi bật: Giảm gần 40% nguy cơ tử vong Sau 8 năm theo dõi, kết quả cho thấy: Nhóm điều trị phối hợp (enzalutamide + leuprolide) có tỷ lệ sống sót chung là 78,9%. Nhóm chỉ dùng leuprolide có tỷ lệ sống sót 69,5%. Điều này tương đương với mức giảm nguy cơ tử vong gần 40%. Nhóm chỉ dùng enzalutamide đơn độc có tỷ lệ sống 73%, không khác biệt đáng kể so với nhóm leuprolide đơn trị. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng liệu pháp phối hợp không chỉ giúp làm chậm tiến triển bệnh như các thử nghiệm trước đây đã chỉ ra, mà còn kéo dài đáng kể tuổi thọ của bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao. Tính an toàn và dung nạp Nhìn chung, các phản ứng phụ trong thử nghiệm phù hợp với những gì đã được ghi nhận ở các nghiên cứu trước. Các tác dụng không mong muốn thường gặp bao gồm mệt mỏi, bốc hỏa, giảm ham muốn tình dục và đau khớp. Dù vậy, tỷ lệ bệnh nhân phải ngừng điều trị do tác dụng phụ là thấp và không có biến cố nghiêm trọng mới được ghi nhận. Một hạn chế được các tác giả nêu rõ là thử nghiệm không sử dụng kỹ thuật chụp PET PSMA – phương pháp hình ảnh tiên tiến có thể phát hiện các ổ di căn nhỏ mà các kỹ thuật truyền thống bỏ sót. Điều này đồng nghĩa với khả năng một số bệnh nhân có thể đã có di căn chưa được phát hiện, ảnh hưởng đến cách phân nhóm và đánh giá kết quả. Tuy nhiên, chính yếu tố này cũng củng cố giả thuyết rằng liệu pháp kết hợp có thể hiệu quả ngay cả ở giai đoạn rất sớm của bệnh, khi tế bào ung thư chưa lan rộng rõ ràng trên hình ảnh học. Kỳ vọng mới trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt Những kết quả của thử nghiệm EMBARK mang lại cơ sở vững chắc để thay đổi cách tiếp cận điều trị ung thư tuyến tiền liệt tái phát nguy cơ cao. Sự phối hợp giữa enzalutamide và leuprolide cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc kéo dài thời gian sống và giảm tỷ lệ tử vong, mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng cho bệnh nhân. Nếu được ứng dụng rộng rãi, phác đồ này có thể trở thành tiêu chuẩn điều trị mới, giúp hàng nghìn nam giới trên thế giới có cơ hội sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn trong cuộc chiến chống lại căn bệnh ung thư phổ biến này. https://suckhoedoisong.vn/thuoc-phoi-hop-moi-giup-giam-40-nguy-co-tu-vong-do-ung-thu-tuyen-tien-liet-169251022163310915.htm

Bước tiến mới trong điều trị u phì đại tuyến tiền liệt bằng liệu pháp nhiệt hơi nước

Lần đầu tiên chinh phục kỹ thuật liệu pháp nhiệt hơi nước Trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Hội Tiết niệu-Thận học Việt Nam khu vực phía Bắc (VUNA-North), dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn – Trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai đã triển khai thành công 2 ca mổ thị phạm sử dụng liệu pháp nhiệt hơi nước (Rezūm) – phương pháp điều trị BPH ít xâm lấn nhất và mới nhất hiện nay trên toàn cầu. Hai ca mổ thị phạm được truyền hình trực tiếp với sự tham dự của nhiều giáo sư, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, cùng các bác sĩ chuyên khoa tiết niệu từ các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh đến tham dự, quan sát và học tập kỹ thuật mới. Sau phẫu thuật, 2 bệnh nhân có kết quả rất khả quan: Nước tiểu qua sonde thông ngay sau mổ, không sốt, không đau, không khó chịu. Cả 2 đều hài lòng và được xuất viện an toàn chỉ sau một ngày theo dõi. Thành công này, được thực hiện bởi Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn, một trong hai bác sĩ Việt Nam đầu tiên được đào tạo bài bản về Rezūm ở nước ngoài, đã khẳng định Bệnh viện Bạch Mai hoàn toàn làm chủ công nghệ. Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn, nhiều nam giới lớn tuổi phải sống chung với tình trạng dòng tiểu yếu, ngắt quãng, tiểu đêm nhiều lần – những triệu chứng khiến giấc ngủ bị gián đoạn và mệt mỏi kéo dài, dù đã điều trị nội khoa trong thời gian dài nhưng không cải thiện đáng kể. Khi các triệu chứng trở nên nghiêm trọng (thang điểm IPSS cao, như hai trường hợp điển hình được can thiệp với điểm lần lượt là 32 và 26), can thiệp ngoại khoa là điều không thể tránh khỏi. Bác sĩ Tuấn cho biết, trước đây, các phương pháp phẫu thuật truyền thống như cắt nội soi (TURP) hay bốc hơi bằng laser dù hiệu quả, vẫn tiềm ẩn các hạn chế như nguy cơ chảy máu, rối loạn xuất tinh, hoặc thời gian hồi phục kéo dài. Đặc biệt, những rủi ro này càng lớn hơn ở người cao tuổi có nhiều bệnh lý nền phức tạp như tim mạch, hô hấp. Nội soi trong quá trình thực hiện liệu pháp nhiệt hơi nước (Rezūm) tại Bệnh viện Bạch Mai. Cuộc cách mạng trong điều trị cho bệnh nhân u phì đại lành tính tuyến tiền liệt Liệu pháp Rezūm (Convective Water Vapor Thermal Therapy) được coi là một cuộc cách mạng với nhiều ưu điểm. Theo đó, kỹ thuật sử dụng năng lượng nhiệt từ hơi nước ở khoảng 103 độ C. Hơi nước được đưa chính xác vào mô tuyến tiền liệt phì đại, phá hủy có chọn lọc phần mô bệnh mà không cần cắt bỏ. Mô hoại tử sẽ được cơ thể hấp thu tự nhiên theo thời gian, giúp giải phóng tắc nghẽn và cải thiện dòng tiểu. Phương pháp này có ưu điểm vượt trội nhất là bảo tồn tối đa chức năng tình dục nam giới, một yếu tố thường bị ảnh hưởng đáng kể bởi phẫu thuật truyền thống. Đây là kỹ thuật ít xâm lấn, thời gian thực hiện chỉ 10-15 phút, không cần gây mê sâu, bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày đầu tiên sau phẫu thuật. Ưu điểm nổi bật của liệu pháp này là ít xâm lấn, an toàn, thời gian thực hiện ngắn (trung bình chỉ 10-15 phút), không cần gây mê sâu, có thể thực hiện trên bệnh nhân có nhiều bệnh nền, hồi phục nhanh, người bệnh có thể ra viện ngay trong ngày đầu tiên sau phẫu thuật, và bảo tồn tốt chức năng tình dục – yếu tố từng khiến nhiều bệnh nhân lo lắng khi tìm hiểu các phương pháp phẫu thuật tuyến tiền liệt truyền thống. Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn cho biết, liệu pháp nhiệt hơi nước mở ra hướng điều trị mới cho bệnh nhân u phì đại tuyến tiền liệt, đặc biệt là nhóm bệnh nhân đang còn nhu cầu sinh hoạt tình dục, hoặc nhóm bệnh nhân có những bệnh lý nền nặng, không chịu được gây mê toàn thân hay các cuộc mổ u phì đại truyền thống với thời gian kéo dài. Với cơ chế điều trị chọn lọc, không can thiệp vào hệ mạch, Rezūm còn là giải pháp an toàn hơn cho nhiều đối tượng người bệnh. Với bệnh nhân tim mạch, phương pháp này giúp những người có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch hoặc đang dùng thuốc chống đông máu có thêm lựa chọn điều trị. Với trường hợp phức tạp, có thể áp dụng cho cả những bệnh nhân có bệnh lý mạch máu phức tạp mà phương pháp nút mạch truyền thống không thực hiện được. Việc triển khai Rezūm không chỉ đánh dấu bước tiến mới trong y học Việt Nam mà còn củng cố vị thế Bệnh viện Bạch Mai là trung tâm tiên phong trong đào tạo, chuyển giao và ứng dụng các kỹ thuật hàng đầu, mang lại lựa chọn an toàn, hiệu quả, giúp bảo tồn tối đa chức năng sinh lý cho người bệnh Việt Nam. Người bệnh thường chỉ cần đặt sonde tiểu khoảng 7-10 ngày và có thể sớm trở lại sinh hoạt bình thường ngay sau đó. https://nhandan.vn/buoc-tien-moi-trong-dieu-tri-u-phi-dai-tuyen-tien-liet-bang-lieu-phap-nhiet-hoi-nuoc-post914970.html

Bệnh nhân đầu tiên tại Việt Nam được ghép thận tự thân

Ngày 10/10, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thông tin các bác sĩ tại đây vừa thực hiện thành công kĩ thuật ghép thận tự thân – một bước tiến đột phá của y học và là ca đầu tiên được ghi nhận tại Việt Nam. Nữ bệnh nhân 37 tuổi, đến từ Phú Yên (cũ) đã được các bác sĩ phẫu thuật xử lí khối phình khổng lồ động mạch thận tại rốn thận bằng kĩ thuật ghép thận tự thân. Theo chia sẻ của bệnh nhân, khoảng hai tháng trước, chị xuất hiện cơn đau vùng thắt lưng trái, đôi khi quặn thành từng cơn nhưng không sốt. Sau khi thăm khám ở nhiều bệnh viện lớn phía Nam, bệnh nhân được chẩn đoán mắc phình khổng lồ động mạch thận trái tại rốn thận và được khuyến cáo cắt bỏ thận. Với mong muốn tìm giải pháp bảo tồn, bệnh nhân tìm đến TS. Ngô Vi Hải, Chủ nhiệm Khoa Ngoại lồng ngực, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 để được tư vấn điều trị. Qua thăm khám và chẩn đoán hình ảnh, TS. Ngô Vi Hải xác định bệnh nhân có túi phình động mạch thận trái kích thước gần 5 cm, đã gây đau là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ vỡ túi phình. Khối phình nằm ở rốn thận, nơi xuất phát của các nhánh động mạch quan trọng cho thận, khiến việc đặt stent không khả thi. “Đây là vị trí cực kỳ phức tạp, không thể sửa chữa khi thận còn trong cơ thể. Giải pháp khả thi duy nhất là cắt thận ra ngoài, tái tạo mạch máu, sau đó ghép trở lại”, TS. Hải cho biết. Kíp mổ gồm các bác sĩ hai chuyên ngành tiết niệu trên và phẫu thuật mạch máu đã thống nhất phương án phẫu thuật nội soi cắt thận, bảo tồn thận theo kĩ thuật lấy thận ghép. Sau khi lấy thận ra khỏi cơ thể, khối phình được loại bỏ và động mạch thận được tái tạo bên ngoài bằng tĩnh mạch hiển tự thân. Khi tái tạo xong, quả thận được ghép trở lại vào hố chậu cùng bên theo kĩ thuật ghép thận thường quy. TS. Nguyễn Việt Hải, Chủ nhiệm Khoa Tiết niệu trên, người trực tiếp tham gia phẫu thuật, chia sẻ: “Với loại tổn thương này, thời gian thiếu máu nóng của thận không thể vượt quá 20-30 phút. Chúng tôi phải bảo vệ thận bằng kĩ thuật ghép thận, vừa đảm bảo điều kiện tái tạo mạch máu, vừa giữ được chức năng của cơ quan”. Ca phẫu thuật kéo dài gần 4 giờ đồng hồ diễn ra thuận lợi. Sau mổ, quả thận ghép hoạt động tốt, tưới máu ổn định, được xác nhận qua siêu âm và chụp mạch. Bệnh nhân hồi phục nhanh, có thể tự phục vụ và đi lại bình thường. Đặc biệt, do là ghép thận tự thân nên người bệnh không phải dùng thuốc chống thải ghép hay thuốc ức chế miễn dịch. Hiện sức khỏe bệnh nhân ổn định, chức năng thận duy trì tốt. Trên thế giới, chỉ có rất ít trường hợp tương tự được thực hiện, và tại Việt Nam, đây là ca đầu tiên được ghi nhận thành công. “Thành công của ca phẫu thuật không chỉ mang ý nghĩa y học mà còn thể hiện tinh thần sáng tạo, sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa trong bệnh viện. Điều này mở ra hướng điều trị mới cho những trường hợp tổn thương thận phức tạp mà trước đây tưởng như không thể bảo tồn”, TS. Ngô Vi Hải nhấn mạnh. Ca phẫu thuật thành công một lần nữa khẳng định thế mạnh ghép tạng của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 – đơn vị tiên phong trong ứng dụng kĩ thuật cao, sẵn sàng đón nhận và chinh phục những ca bệnh khó, góp phần nâng tầm y học Việt Nam trên bản đồ khu vực. https://tienphong.vn/benh-nhan-dau-tien-tai-viet-nam-duoc-ghep-than-tu-than-post1785991.tpo

Bệnh viện Thống Nhất ứng dụng công nghệ mới điều trị thoái hóa khớp gối

Bệnh viện Thống Nhất vừa thực hiện thành công ca phẫu thuật nội soi điều trị thoái hóa khớp gối bằng phương pháp điều trị ít xâm lấn, gia tăng khả năng tái tạo sụn khớp cho bệnh nhân 55 tuổi. Trước đó, bệnh nhân V. nhập viện trong tình trạng đau nhức, hạn chế vận động khớp gối. Kết quả thăm khám và chẩn đoán hình ảnh ghi nhận thoái hóa khớp gối giai đoạn 2, kèm tổn thương sụn và dây chằng. Các bác sĩ đã tiến hành nội soi cắt lọc, làm sạch khớp, đồng thời kết hợp ứng dụng keo Fibrin tự thân giàu tiểu cầu Platelet Rich Fibrin (PRF)-đây là một loại keo tự thân được chiết tách từ chính máu của bệnh nhân. Phẫu thuật nội soi cắt lọc khớp gối và bơm PRF. Từ 240ml máu ngoại vi của người bệnh, bác sĩ tách chiết được 10,9ml PRF, sau đó bơm trực tiếp vào các vị trí tổn thương trong quá trình nội soi cả hai khớp gối. Keo PRF được tạo từ chính máu của bệnh nhân nên hoàn toàn an toàn, không lo lây nhiễm hay phản ứng đào thải. Trong keo có rất nhiều yếu tố giúp tăng tốc độ phục hồi giúp kích thích tạo mạch máu mới, tái tạo sụn, hình thành mô mới. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thành Toàn thăm khám bệnh nhân sau ca mổ. Fibrin trong keo giống một lớp khung đỡ tự nhiên giữ lại tiểu cầu và từ từ giải phóng các chất có lợi. Nhờ vậy vùng tổn thương được giảm đau, cầm máu, vừa có điều kiện để các tế bào mới phát triển và tái tạo. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thành Toàn, Phó Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất, Trưởng Khoa Ngoại chấn thương khớp, cho biết: “PRF có thể duy trì tác dụng kéo dài từ 7-14 ngày sau phẫu thuật giúp bệnh nhân phục hồi nhanh, sớm đi lại và giảm chi phí điều trị”. Sau mổ ngày thứ ba, bệnh nhân V. không còn đau và sưng nề ở hai gối, vết mổ khô, tập gồng cơ, gấp duỗi gối bình thường. Bệnh nhân hồi phục tốt sau ca mổ ít xâm lấn. Theo Bệnh viện Thống Nhất, thoái hóa khớp là bệnh lý mạn tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Do đó, việc kết hợp phẫu thuật nội soi với ứng dụng keo PRF tự thân đã mở ra hướng điều trị an toàn, ít xâm lấn, gia tăng khả năng tái tạo sụn khớp, mang đến cơ hội phục hồi vận động tốt hơn cho người bệnh. https://nhandan.vn/benh-vien-thong-nhat-ung-dung-cong-nghe-moi-dieu-tri-thoai-hoa-khop-goi-post911743.html

Việt Nam điều trị ca ung thư máu đầu tiên thành công với liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T

Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP Hồ Chí Minh lần đầu tiên điều trị thành công cho bé gái mắc ung thư máu với liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T. Với sự phối hợp của các chuyên gia đến từ Đài Loan (Trung Quốc), Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP Hồ Chí Minh lần đầu tiên điều trị thành công trường hợp mắc bệnh ung thư máu bằng liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T. Đây là phương pháp điều trị ung thư mới và khó nhất hiện nay. Đây là thông tin được Giáo sư, Tiến sỹ, bác sỹ Phù Chí Dũng, Giám đốc Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh chia sẻ tại 3 hội nghị diễn ra đồng thời là Hội nghị Truyền máu – Huyết học Việt Nam lần 8, Hội nghị Truyền máu-ghép-liệu pháp tế bào Việt Pháp mở rộng lần 8 và Hội nghị Ghép tế bào gốc tủy xương và máu châu Á-Thái Bình Dương lần 30, khai mạc ngày 16/9 tại TP Hồ Chí Minh. Bác sỹ Phù Chí Dũng chia sẻ bệnh nhân là một bé gái (12 tuổi) được chẩn đoán mắc bạch cầu cấp lympho B, nhóm nguy cơ cao. Sau khi được hóa trị, bệnh nhân bị tái phát lần đầu, sau đó được ghép tủy nửa thuận hợp từ người cha nhưng vẫn tái phát lần thứ hai. Các bác sỹ Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh đã phối hợp cùng các chuyên gia Đài Loan (Trung Quốc) sử dụng liệu pháp CAR-T (liệu pháp miễn dịch sử dụng tế bào T của chính bệnh nhân được biến đổi gen trong phòng thí nghiệm để chúng có khả năng nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư). Sau hơn 1 năm truyền tế bào CAR-T, hiện sức khỏe của bệnh nhân ổn định và vẫn đang được tiếp tục điều trị, theo dõi tại Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP Hồ Chí Minh. Đây là ca bệnh đầu tiên tại Việt Nam áp dụng liệu pháp tế bào CAR-T để điều trị ung thư máu. Liệu pháp miễn dịch CAR-T còn gọi là liệu pháp tế bào CAR-T được xem là một bước đột phá lớn nhất trong lĩnh vực điều trị ung thư, đặc biệt là ung thư máu. Phương pháp này mang nhiều ưu điểm vượt trội so với các phương pháp điều trị truyền thống, ít tác dụng phụ, hiệu quả điều trị cao, kéo dài sự sống cho người bệnh và chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể sau khi điều trị. Đặc biệt, liệu pháp CAR-T có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch lâu dài, giúp giảm nguy cơ tái phát bệnh. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay của liệu pháp CART-T là chi phí điều trị rất cao, quá trình sản xuất tế bào CAR-T đòi hỏi công nghệ phức tạp và các thiết bị hiện đại. Hiện Bệnh viện Truyền máu-Huyết học Thành phố Hồ Chí Minh đang tích cực chuẩn bị về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự (bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên được cấp chứng nhận) và sự hỗ trợ của chuyên gia nước ngoài để tự sản xuất tế bào CAR-T tại Việt Nam. Bác sỹ Phù Chí Dũng ước tính, nếu tự sản xuất được tế bào CAR-T tại Việt Nam thì chi phí điều trị có thể giảm xuống khoảng 20 lần so với ra nước ngoài điều trị (xuống còn dưới 500 triệu đồng/ca bệnh). Ngoài ra, tại 3 hội nghị năm nay còn có hơn 200 báo cáo của các chuyên gia trong lĩnh vực truyền máu, huyết học của Việt Nam và quốc tế. Các nội dung báo cáo là các nghiên cứu khoa học mới nhất, tập trung vào các nội dung chính như: truyền máu, bệnh lý huyết học, hóa trị liệu, ghép tế bào gốc tạo máu, liệu pháp trúng đích, liệu pháp tế bào, liệu pháp gene, kháng thể đơn dòng, nhiễm trùng, ngân hàng tế bào gốc, tế bào gốc trung mô, ngân hàng máu, quản lý chất lượng, điều dưỡng. Diễn ra từ ngày 16-20/9, Hội nghị Truyền máu-Huyết học Việt Nam lần 8, Hội nghị Truyền máu-ghép-liệu pháp tế bào Việt Pháp mở rộng lần 8 và Hội nghị Ghép tế bào gốc tủy xương và máu châu Á-Thái Bình Dương lần 30 thu hút sự tham gia của gần 2.000 đại biểu, trong đó có gần 350 đại biểu quốc tế. https://dangcongsan.org.vn/haiphong/tin-tuc-hoat-dong/viet-nam-dieu-tri-ca-ung-thu-mau-dau-tien-thanh-cong-voi-lieu-phap-te-bao-mien-dich-car-t.html

Kỳ tích y khoa: Bệnh viện Bạch Mai và BVĐK Vĩnh Phúc cứu sống bệnh nhân ngừng tim 60 phút

90 phút “Thần tốc” tạo nên kỳ tích cứu sống người bệnh Bệnh nhân nữ, 47 tuổi, tiền sử u lành tính tuyến vú phải đã được phẫu thuật, chưa phát hiện bệnh lý tim mạch mạn tính. Bệnh nhân vào BVĐK Vĩnh Phúc do cơn đau ngực trái cấp tính khởi phát 4 giờ trước. Tại đây, người bệnh được chẩn đoán: Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên (STEMI) giờ thứ 4 – một cấp cứu tim mạch với nguy cơ tử vong cao nếu không được xử trí kịp thời. Bệnh nhân được chụp mạch vành qua da cấp cứu, phát hiện tắc hoàn toàn động mạch liên thất trước (LAD) và tiến hành can thiệp đặt stent động mạch vành, dòng chảy sau can thiệp tốt. Sau can thiệp, người bệnh được chuyển về bệnh phòng tiếp tục theo dõi sát. Trong lúc đang được theo dõi sau can thiệp, bệnh nhân đột ngột xuất hiện mất ý thức, trên máy theo dõi là hình ảnh rung thất – Rối loạn nhịp nguy kịch gây ngừng tuần hoàn. Người bệnh được hồi sức tim phổi, ép tim ngoài lồng ngực, sốc điện nhiều lần với tổng thời gian ngừng tim phải tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn 60 phút. Sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, người bệnh có mạch trở lại. Tuy nhiên, bệnh nhân rơi vào tình trạng sốc tim rất nặng, chức năng tim giảm nhiều, huyết áp tụt sâu, phải dùng ba loại vận mạch liều cao, nguy cơ tử vong rất cao. Ngay lập tức, BVĐK Vĩnh Phúc đã phát đi “tín hiệu” kêu gọi sự hỗ trợ từ Bệnh viện Bạch Mai. Lúc này, sức mạnh của sự phối hợp liên viện và năng lực chỉ đạo của Bệnh viện tuyến Trung ương đã phát huy tối đa. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt và thần tốc của PGS.TS Đào Xuân Cơ –  Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, chỉ sau 1,5 giờ nhận được yêu cầu hỗ trợ từ Vĩnh Phúc, một ê-kip chuyên gia ECMO tinh nhuệ đã có mặt tại chỗ. Ê-kíp bao gồm: BSCKII. Nguyễn Bá Cường, Trung tâm Hồi sức Tích cực; ThS.BS. Hoàng Tuấn Phong và ThS.BS. Võ Duy Văn – Viện Tim mạch Quốc gia. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai bệnh viện, hệ thống ECMO đã nhanh chóng được thiết lập ngay tại Vĩnh Phúc, kịp thời thay thế chức năng tim – phổi suy yếu của bệnh nhân, giành giật sự sống từ tay tử thần. Sự phản ứng “thần tốc” không phải ngẫu nhiên. Nó là kết quả của sự chỉ đạo xây dựng một cơ chế phối hợp liên viện linh hoạt, hiệu quả dưới sự điều hành của PGS.TS. Đào Xuân Cơ. Ông nhấn mạnh: Bệnh viện Bạch Mai với vai trò đầu ngành phải luôn sẵn sàng ở tư thế “ứng chiến” cao nhất. Chúng tôi đã xây dựng các ê-kip chuyên sâu luôn túc trực, quy trình vận hành tinh gọn và sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nòng cốt như Trung tâm Hồi sức Tích cực và Viện Tim mạch Quốc gia để có thể hỗ trợ toàn quốc một cách nhanh chóng nhất khi có yêu cầu. Từ Hành trình hồi sinh đến Tầm nhìn chiến lược Quốc gia Sau khi được ECMO hỗ trợ, bệnh nhân được chuyển về Trung tâm Hồi sức Tích cực (HSTC) Bệnh viện Bạch Mai để tiếp tục cuộc chiến giành lại sự sống từ tay tử thần. Tại đây, dưới sự điều trị tận tâm của BS. Hồ Đức Triều và ê-kíp HSTC, cùng sự phối hợp đa chuyên khoa chặt chẽ (Tim mạch, Dược lâm sàng, Dinh dưỡng, Phục hồi chức năng), bệnh nhân đã vượt qua những giai đoạn nguy kịch, ngàn cân treo sợi tóc như sốc tim trầm trọng và nhiễm khuẩn nặng. Nhờ tinh thần trách nhiệm cao, sự phối hợp chuyên môn nhịp nhàng và tinh thần không bỏ cuộc, người bệnh đã có những chuyển biến tích cực. Sau 4 ngày điều trị, bệnh nhân được rút ECMO thành công. Sau 14 ngày điều trị tích cực, bệnh nhân đã hồi phục tốt, chức năng tim cải thiện rõ rệt và đủ điều kiện xuất viện. Thành công này không chỉ là một kỳ tích đơn lẻ mà còn là một bước đi chiến lược, như PGS.TS. Đào Xuân Cơ – Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai đã khẳng định: “Hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới triển khai thành công kỹ thuật cao như ECMO không đơn thuần là giải quyết một ca bệnh khó. Đó là nhiệm vụ chiến lược nhằm từng bước nâng cao năng lực chuyên môn cho y tế địa phương, giúp người dân được tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao ngay tại tuyến tỉnh, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên và giảm nguy cơ cho người bệnh khi phải vận chuyển xa”. Phó giáo sư Xuân Cơ cũng chỉ ra rằng thành công của kỹ thuật ECMO không chỉ phụ thuộc vào máy móc hiện đại. Yếu tố quan trọng hơn cả là hệ thống tổ chức, con người được đào tạo bài bản, sự phối hợp đa chuyên khoa nhịp nhàng và một quy trình chuẩn hóa. Ca bệnh tại Vĩnh Phúc chính là minh chứng sống động cho thấy, với sự hỗ trợ chuyên môn sâu, kịp thời từ tuyến trung ương và sự quyết tâm của địa phương, kỹ thuật này hoàn toàn có thể triển khai hiệu quả tại tuyến tỉnh. Thành công của ca ECMO tại Vĩnh Phúc là một tín hiệu đáng mừng cho cả hệ thống y tế, hứa hẹn một tương lai người dân trên mọi miền Tổ quốc đều được tiếp cận những dịch vụ y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao với chất lượng tốt nhất. Tinh thần “Không bao giờ từ bỏ dù hy

Thêm kỳ tích của ngành y Việt Nam: Lần đầu tiên ghép thành công đồng thời tim – phổi cho người bệnh suy đa tạng

Sự thành công của ca ghép đồng thời tim – phổi cho bệnh nhân suy đa tạng mở ra một dấu mốc quan trọng, khẳng định bước tiến vượt bậc của BV Hữu nghị Việt Đức trong lĩnh vực ghép đa tạng, đồng thời đặt dấu mốc cho y học Việt Nam trên bản đồ thế giới, mở ra nhiều cơ hội cứu sống người bệnh nguy kịch. TS.BS Dương Đức Hùng – Giám đốc BV Hữu nghị Việt Đức đã xúc động chia sẻ thông tin trên với báo chí… Ca ghép khối tim – phổi đầu tiên kéo dài 7 giờ, hơn 40 chuyên gia tham gia trực tiếp… Cách đây hơn 3 tuần, người bệnh Trần Như Q (38 tuổi) bước vào ca ghép đa tạng đầu tiên trong lịch sử ghép tạng của Việt Nam – ghép khối tim – phổi đồng thời. Trước đó, nữ bệnh nhân có tiền sử: thông liên nhĩ – tăng áp động mạch phổi nặng đã bít dù thông liên nhĩ tại Bệnh viện Tim Hà Nội năm 2011, không theo dõi thường xuyên, mới dùng thuốc được 1 năm trở lại, bệnh nhân không có tiền sử tai biến mạch máu não. PGS. TS Phạm Hữu Lư – Phó Trưởng Khoa Ngoại Tim mạch và Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch, BV Hữu nghị Việt Đức cho biết, bệnh nhân vào viện được chẩn đoán: hội chứng eisenmenger – suy thất phải không hồi phục – hở ba lá nặng/ tiền sử bít dù thông liên nhĩ, khả năng tử vong tính theo ngày, có chỉ định ghép cả tim và phổi đồng thời dù không kịp thời gian điều trị suy dinh dưỡng và phổi người hiến có nhiễm khuẩn Acinetor baummani và to hơn lồng ngực người nhận. “Chúng tôi đã hội chẩn liên chuyên khoa, bởi để thực hiện kỹ thuật ghép đồng thời khối tim – phổi cải tiến phải có sự phối hợp liên chuyên khoa: Nội tim mạch lồng ngực, gây mê – hồi sức, ngoại, phục hồi chức năng, dinh dưỡng …”- TS Lư nói. Trong ca phẫu thuật kéo dài 7 tiếng liên tục, các chuyên gia của BV Hữu nghị Việt Đức phải sử dụng hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể thay thế tạm thời tim và phổi trong suốt thời gian đó. Để đảm bảo tim hoạt động tốt nhưng cần tránh truyền nhiều dịch gây phù phổi, dùng ít thuốc mê và đưa vào các phương tiện theo dõi huyết động tiên tiến nhất. Các bác sĩ cũng tiến hành cắt bớt phổi hai bên cho vừa, nối hai phế quản gốc thay vì nối khí quản theo kinh điển để tưới máu miệng nối tốt hơn, soi phế quản ống mềm trong mổ đánh giá 2 miệng nối phế quản gốc. Khối tim – phổi của người hiến được chuẩn bị đưa vào ghép cho bệnh nhân. Theo TS Hùng, đây là ca bệnh đặc biệt hiếm gặp, đòi hỏi sự phối hợp liên chuyên khoa, áp dụng những kỹ thuật phẫu thuật và hồi sức tiên tiến hàng đầu hiện nay. “Ghép khối tim – phổi là một kỹ thuật y học tiên tiến, trong đó cả tim và hai phổi của người bệnh được thay thế đồng thời bằng tim và hai phổi khỏe mạnh từ người hiến tạng phù hợp. Đây là giải pháp điều trị cuối cùng cho các bệnh nhân mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối, khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả”- TS.BS Dương Đức Hùng nói và cho biết thêm: Ca phẫu thuật này đòi hỏi kỹ thuật cao, phối hợp nhiều chuyên khoa và hệ thống hồi sức, chăm sóc sau mổ đặc biệt. Tiếp tục ‘cắm cờ đỏ sao vàng’ của Việt Nam trên bản đồ ghép đa tạng, đặc biệt là trong ghép đồng thời tim – phổi Ông Hùng cũng thông tin, trên thế giới, ghép khối tim – phổi được thực hiện rất ít do yêu cầu nguồn tạng hiếm, quy trình phẫu thuật phức tạp và nguy cơ biến chứng cao; được chỉ định cho những trường hợp mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả. Thành công của ca ghép đồng thời tim – phổi không chỉ đánh dấu bước tiến vượt bậc trong năng lực ghép tạng, đặc biệt là ghép đa tạng, mà còn khẳng định trình độ chuyên môn của đội ngũ y tế Việt Nam trong lĩnh vực ngoại khoa. Thành tựu này mở ra cơ hội sống và hướng điều trị mới cho những bệnh nhân mắc bệnh tim – phổi giai đoạn cuối. “Tính từ ngày thực hiện ca ghép, hôm nay tròn 24 ngày. Thời gian qua thực sự là những ngày ‘căng với ekip hồi sức và phẫu thuật viên tham gia thực hiện ca ghép đa tạng này. Đến hôm nay chúng tôi mới cảm giác như nhẹ người hơn Với thành công của ca ghép khối tim – phổi này, chúng tôi đã tiếp tục cắm cờ đỏ sao vàng của Việt Nam trên bản đồ ghép đa tạng, đặc biệt là trong ghép đồng thời tim – phổi bởi hiện nay ghép khối tim – phổi rất ít. Do yêu cầu nguồn tạng hiếm và kỹ thuật cực kỳ phức tạp, mỗi năm toàn thế giới chỉ thực hiện khoảng 100 ca ghép như này”- TS.BS Đương Dức Hùng chia sẻ. Các tình huống thường gặp gồm: bệnh tim bẩm sinh phức tạp kèm tăng áp động mạch phổi kiểu Eisenmenger; tăng áp động mạch phổi nặng đã gây suy tim phải không hồi phục; hoặc bệnh phổi giai đoạn cuối kèm bệnh tim trái không thể sửa chữa. Do yêu cầu nguồn tạng hiếm và kỹ thuật cực kỳ phức tạp, mỗi năm

Kỳ tích y khoa: Ca vỡ phế quản gốc hai bên đầu tiên được cứu sống tại Việt Nam

Vỡ phế quản gốc hai bên – tổn thương cực hiếm với nguy cơ tử vong cao, đã được các bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức xử lý thành công trong một ca cấp cứu khẩn cấp, cứu sống cô gái 18 tuổi sau tai nạn giao thông nghiêm trọng. Ngày 08/4, em P.T.T.N (18 tuổi, trú tại Hưng Yên) được chuyển đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong tình trạng nguy kịch sau vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa xe máy và ô tô. Nạn nhân bị bánh ô tô cán trực tiếp qua vùng ngực, gây chấn thương nặng. Trước đó, em đã được sơ cứu tại Bệnh viện Đa khoa Hưng Hà, được đặt ống nội khí quản, dẫn lưu màng phổi hai bên trước khi chuyển khẩn cấp lên tuyến trên. Tại thời điểm tiếp nhận, em N. đang được an thần và thở máy, mạch nhanh, toàn bộ vùng ngực xây xát nặng, tràn khí dưới da lan rộng vùng đầu, mặt, cổ và ngực. Dẫn lưu màng phổi hai bên liên tục có khí thoát ra cho thấy nghi ngờ có tổn thương nghiêm trọng đường thở trên bệnh nhân bị các chấn thương khác phối hợp. Đồng thời, bệnh nhân còn bị nghi ngờ chấn thương sọ não, hàm mặt biến dạng, gãy xương hàm dưới, chấn thương tạng trong ổ bụng. Ngay lập tức, các bác sĩ đã tiến hành cấp cứu thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và đặc biệt là nội soi khí phế quản cấp cứu. Kết quả cuối cùng về chấn thương ngực cho thấy người bệnh bị vỡ phế quản gốc hai bên. Đây là một tổn thương rất nghiêm trọng và hiếm gặp với tỷ lệ tử vong cực cao, đe dọa trực tiếp đến tính mạng do rối loạn hô hấp và huyết động nặng nề. Bệnh nhân còn bị kèm theo chấn thương sọ não, hàm mặt biến dạng, gãy xương hàm dưới, chấn thương gan và lách độ 2. PGS.TS Phạm Hữu Lư, Phó Trưởng khoa Ngoại Tim mạch – Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết, trước diễn biến nguy kịch, bệnh viện đã nhanh chóng hội chẩn và quyết định xử trí khẩn cấp. Người bệnh được chuyển sang phòng mổ chuyên khoa tim mạch – lồng ngực với đầy đủ thiết bị chuyên sâu. Ê-kíp phẫu thuật lồng ngực đã mở xương ức để bộc lộ phế quản gốc hai bên, đồng thời sử dụng kỹ thuật ECMO (tim phổi nhân tạo) để đảm bảo duy trì bão hoà oxy máu và huyết động trong suốt quá trình mổ và hỗ trợ phổi sau mổ. Nữ bệnh nhân hiện đã ổn định được PGS.TS Phạm Hoa Lư khám lại. Ảnh: Bệnh viện cung cấp Kỳ tích của y khoa Việt Nam Theo các chuyên gia, đây là ca vỡ phế quản gốc hai bên đầu tiên được ghi nhận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và Việt Nam đồng thời là một trong những trường hợp cực hiếm trong y văn, với tỷ lệ gặp chưa đến 1% trong các ca đa chấn thương nặng. Sau khi xử trí lập lại lưu thông đường thở hai bên, tình trạng bệnh nhân ổn định lại (bão hoà oxy máu động mạch 98 – 99%, huyết động ổn định) được chuyển về phòng hồi sức tích cực điều trị tiếp. Qua hai tuần điều trị tích cực, tình trạng bệnh nhân dần hồi phục trở lại, bệnh nhân tỉnh táo, được rút ống nội khí quản và chuyển về khoa Ngoại Tim mạch – Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức để tiếp tục theo dõi. Sau đó, người bệnh được điều trị phục hồi vùng hàm mặt (kết hợp xương hàm dưới bằng nẹp vít). Hiện tại, bệnh nhân đã được xuất viện với thể trạng ổn định. Khám lại sau 1 tháng xuất viện, người bệnh phục hồi gần như hoàn toàn với thể trạng vui tươi, tinh thần lạc quan, kết quả soi khí – phế quản sau sửa chữa thông tốt, không hẹp. Các cơ quan bộ phận khác phục hồi tốt trong niềm vui phấn khởi của gia đình và nhân viên y tế tham gia cấp cứu và điều trị cho cháu. https://daibieunhandan.vn/ky-tich-y-khoa-ca-vo-phe-quan-goc-hai-ben-dau-tien-duoc-cuu-song-tai-viet-nam-10375820.html

Bác sĩ Tôn Thất Tùng – cha đẻ phương pháp mổ gan siêu nhanh của thế giới

Bác sĩ Tôn Thất Tùng phẫu tích hơn 200 lá gan tử thi để tìm hiểu cấu trúc mạch máu và phát minh phương pháp “cắt gan khô” được thế giới vinh danh “phương pháp Tôn Thất Tùng”. Giáo sư Tôn Thất Tùng sinh năm 1912, mất năm 1982 ở tuổi 70, nổi tiếng thế giới là nhà phẫu thuật trong lĩnh vực gan. Luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa Cách phân chia mạch máu của gan được bác sĩ Tùng bảo vệ thành công năm 1939 tại Pháp. Phương pháp này, còn gọi là phương pháp cắt gan khô, được Đại học Tổng hợp Paris trao huy chương bạc nhưng bị Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris cùng các giáo sư đầu ngành công kích dữ dội bởi ý tưởng quá mới. Nhớ lại y học thế giới giai đoạn này, học trò Giáo sư Tùng là Giáo sư Đặng Hanh Đệ, hiện 89 tuổi, nguyên chủ nhiệm phẫu thuật Khoa Tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, nói rằng phương pháp của thầy Tùng bị phản đối do những năm 39-40 phương pháp mổ cắt gan từ cuống được coi là kinh điển. “Cắt gan từ cuống là kỹ thuật mổ kéo dài 3-6 giờ, bệnh nhân mất máu nhiều, trong khi phương pháp của thầy Tùng cắt từ ngoài vào thẳng cuống gan nên thời gian mổ ngắn chỉ 4-8 phút, hiệu quả cao nhưng đòi hỏi phẫu thuật viên phải nắm rất vững cấu trúc giải phẫu bên trong gan”, Giáo sư Đệ giải thích, hôm 18/8. Do nhược điểm của mổ cắt gan từ cuống như vậy nên vấn đề được bác sĩ Tùng đặt ra khi ấy là “đường nào mổ gan nhanh mà ít máu”. Một lần, phát hiện gan của một bệnh nhân Việt Nam có giun chui vào đường mật, bác sĩ Tùng nảy ra ý tưởng nghiên cứu cơ cấu lá gan. Trong 5 năm từ 1935 đến 1939, bằng con dao cạo thô sơ, ông phẫu tích hơn 200 lá gan trên tử thi để nghiên cứu các mạch máu và vẽ lại thành sơ đồ đối chiếu, từ đó rút ra bài học. Cuối cùng, ông thuộc lòng sự phân chia của các mạch máu trong gan, quan hệ của các mạch này so với bề mặt ngoài gan, tạo ra phương pháp cho phép cắt gan chỉ mất 4-8 phút, bệnh nhân giảm chảy máu và ít tổn thương. Mãi đến năm 1952, tại hội nghị phẫu thuật quốc tế ở Copenhaghen (Đan Mạch), phương pháp cắt gan của bác sĩ Tùng mới được giới y khoa thế giới thừa nhận, còn gọi là phương pháp cắt gan khô hoặc phương pháp Tôn Thất Tùng. Giới y khoa quốc tế gọi Tôn Thất Tùng là “người cha của cắt gan có quy phạm”, nhiều bác sĩ nước ngoài sang Việt Nam trực tiếp xem phẫu thuật và học hỏi. Cây đại thụ y khoa Việt Nam Giáo sư Tôn Thất Tùng được xem là cây đại thụ của y khoa Việt Nam, có nhiều cống hiến cho ngành y trên cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại khoa (Đại học Y Hà Nội), Giám đốc Bệnh viện Việt – Đức, Thứ trưởng Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là người thầy đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng cho nước nhà, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô, Viện sĩ Viện hàn lâm Phẫu thuật Paris, hội viên Hội các nhà phẫu thuật Lyon (Pháp). Mang dòng họ hoàng tộc thời Nguyễn song ông không theo nghiệp làm quan mà năm 1931 ra Hà Nội học trường Trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi – trường Chu Văn An ngày nay) rồi trường Y – Dược của Đại học Đông Dương. Ba năm sau, ông được tuyển cùng 10 sinh viên khác làm ngoại trú tại Bệnh viện Phủ Doãn, sau đó là người duy nhất được nhận vào làm việc tại khoa ngoại trường Y – Dược, tức Bệnh viện Việt – Đức ngày nay. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập. Nền y tế Việt Nam thuở ấy quá sơ sài. Cả nước có 130 bác sĩ, chỉ khám chữa được những bệnh thông thường như sốt, tiêu chảy, còn chuyên sâu gần như không có. Điều khó khăn nhất là suốt nhiều năm chiến tranh và thuộc địa, Việt Nam bị cô lập với thế giới, không sách vở, không biết y học thế giới phát triển ra sao. Trong bối cảnh này, năm 1947 bác sĩ Tùng nhận chức Thứ trưởng Bộ Y tế với trọng trách xây dựng và phát triển nền y tế Việt Nam trở thành một mặt trận kháng chiến lớn mạnh về sau. Năm 1954, Tôn Thất Tùng mới có cơ hội tiếp xúc với nền y tế Liên Xô, Trung Quốc, trực tiếp mời chuyên gia về hướng dẫn, từ đó phát triển các chuyên ngành như tiêu hóa, thần kinh, xương khớp, tiết niệu. Tim mạch là chuyên khoa cuối cùng, đến năm 1960 mới hình thành. Bác sĩ Tùng đến nay được ghi danh là bác sĩ Việt Nam đầu tiên mổ tim bệnh nhân. Theo Giáo sư Đệ, “mổ tim hở ở Việt Nam thời ấy là cả một công trình, khi điều kiện vật chất thiếu thốn vô cùng”. Giáo sư Đệ khi ấy là sinh viên y khoa đi theo thầy Tùng học nghề. Ca phẫu thuật tim đầu tiên của bác sĩ Tùng diễn ra năm 1958, sau khi ông sang Ấn Độ học kỹ thuật này. Ông dùng máy tim phổi nhân tạo lắp vào bệnh nhân để hoạt động thay thế chức năng trái tim, rồi mở trái tim người bệnh ra sửa chữa. Cuộc mổ thuận lợi, không một trục trặc nào. Bác sĩ Gibbon (Mỹ) –

Nửa thế kỷ từ bệnh viện có một bác sĩ thành nơi ghép tủy lớn nhất Việt Nam

Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP HCM ban đầu chỉ có một bác sĩ, 50 năm sau trở thành cơ sở gần 1.000 nhân viên, tiên phong trong nhiều kỹ thuật khó và hiện là nơi ghép tủy lớn nhất Việt Nam. Tiền thân là Viện Truyền máu Quốc gia (chế độ Sài Gòn), sau ngày thống nhất đất nước nơi đây được đổi tên thành Viện Truyền máu và 5 năm sau trở thành Trung tâm Truyền máu – Huyết học TP HCM. Năm 2002, nơi này mang tên Bệnh viện Truyền máu Huyết học TP HCM, là cơ sở chuyên khoa hạng một, tuyến cuối của khu vực phía Nam, một trong những bệnh viện hàng đầu cả nước về truyền máu và huyết học. Những ngày đầu hoạt động sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, viện chỉ vỏn vẹn 36 người, gồm một bác sĩ và bốn dược sĩ, chuyên tiếp nhận, điều chế và phân phối máu cho các bệnh viện tại thành phố, TS.BS.CK2 Phù Chí Dũng, Giám đốc Bệnh viện Truyền máu Huyết học TP HCM, cho biết tại Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập bệnh viện, 30 năm thực hiện ca ghép tế bào gốc đầu tiên tại Việt Nam, ngày 11/7. Ngày 12/5/1990 đánh dấu bước ngoặt lớn khi bệnh viện lập khu điều trị các bệnh lý về máu quy mô 30 giường, với đội ngũ 6 bác sĩ, 10 điều dưỡng. Đây được xem là khoa điều trị bệnh lý huyết học riêng biệt đầu tiên cả nước. Hơn 5 năm sau, học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản, Đài Loan, viện thực hiện ca ghép tủy xương đầu tiên tại Việt Nam và trở thành trung tâm ghép tủy đầu tiên của cả nước, mở đầu kỷ nguyên ghép tủy trị bệnh huyết học. Người đầu tiên ở Việt Nam được ghép tủy là nam thanh niên 21 tuổi mắc bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, được ghép tế bào gốc từ anh ruột hiến. Sau ghép, người thanh niên khỏi bệnh, lập gia đình, sinh hai con và sống khỏe đến nay. PGS.TS.BS Trần Văn Bé, giám đốc đầu tiên của viện, người chỉ huy ca ghép trên, nhớ lại muôn vàn khó khăn thiếu thốn khi tiên phong thực hiện kỹ thuật này để cứu người bệnh. “Đến cây kim chọc tủy khi ấy còn chưa có, chúng tôi phải chọn lựa từ loại dùng cho thú y đem về xử lý để dùng”, ông nói. Từ thành công này, bệnh viện tiếp tục đi đầu trong nhiều kỹ thuật ghép tế bào gốc phức tạp khác. Năm 2002, nơi đây thực hiện ca ghép máu cuống rốn đầu tiên Việt Nam, sau đó là những kỹ thuật mới nhất của thế giới, đồng thời hỗ trợ nhiều bệnh viện khác triển khai kỹ thuật. Đến nay, bệnh viện thực hiện khoảng 700 ca, đứng đầu cả nước về số lượng. Ca ghép tủy đầu tiên Việt Nam tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học TP HCM, năm 1995. Ảnh: Bệnh viện cung cấp Ngân hàng tế bào gốc là một trong ba lĩnh vực mạnh nhất của Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP HCM hiện nay. Hai lĩnh vực còn lại là khám chữa bệnh với gần 10.000 ca nhập viện, 140.000 lượt ngoại trú mỗi năm và ngân hàng máu. Hiện, ngân hàng máu cho ra đời hơn 650.000 đơn vị chế phẩm máu mỗi năm, phục vụ tất cả bệnh viện tại thành phố và một số tỉnh lân cận. Dự kiến cuối năm nay, bệnh viện khởi công xây trụ sở hai ngân hàng này, công suất gấp nhiều lần hiện tại. Đầu năm nay, bệnh viện là cơ sở y tế công lập đầu tiên đạt chứng nhận chất lượng JCI hàng đầu thế giới, điều trị người bệnh theo tiêu chuẩn quốc tế với giá cả Việt Nam. Nơi này hiện có gần 1.000 nhân viên với hơn 160 bác sĩ ở nhiều chuyên khoa. Bệnh viện tiếp tục phát triển nhiều liệu pháp mới, kỹ thuật mới, để người bệnh được thụ hưởng tiến bộ hàng đầu thế giới, không cần phải đi nước ngoài điều trị. Phó chủ tịch UBND TP HCM Trần Thị Diệu Thúy đánh giá cao những nỗ lực của bệnh viện trong hành trình từ cơ sở chỉ có một lĩnh vực duy nhất là lấy máu đã trở thành ngân hàng máu, ngân hàng tế bào gốc, cơ sở khám chữa bệnh đạt chuẩn quốc tế JCI, tiên phong trong nhiều kỹ thuật phức tạp ở Việt Nam. Bà kỳ vọng nơi này cùng một số bệnh viện lớn trong thành phố tiếp tục vai trò dẫn dắt, góp phần xây dựng TP HCM trở thành trung tâm chăm sóc sức khỏe khu vực ASEAN. https://vnexpress.net/nua-the-ky-tu-benh-vien-mot-bac-si-thanh-noi-ghep-tuy-lon-nhat-viet-nam-4912932.html  

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám