BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG
BAC THANG LONG HOSPITAL

(84) 889 615 815

Email: thugopy.bvbtl@gmail.com

Hoạt Động Nghiên Cứu

Tư Vấn Sức Khoẻ

Bác sĩ chỉ dấu hiệu phân biệt giữa đột tử và đột quỵ

Đột tử và đột quỵ đều diễn tiến đột ngột, nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong hoặc di chứng của thiếu oxy não kéo dài không hồi phục. Theo ThS.BS Đoàn Dư Mạnh, Thành viên Hội Bệnh mạch máu Việt Nam, điểm giống nhau giữa đột quỵ và đột tử tim là đều thấy người bệnh đột nhiên ngã quỵ và mất ý thức, nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong hoặc di chứng của thiếu oxy não kéo dài không hồi phục. “Đột quỵ và đột tử tim là đều rất nguy hiểm, cần phải xử trí càng sớm càng tốt”… Bác sĩ Mạnh chỉ ra cách phân biệt bệnh nhân đột quỵ, đột tử và hướng xử trí kịp thời khi phát hiện. Dấu hiệu nhận biết Đột tử: Bệnh nhân đột ngột ôm ngực (nhiều người sau cấp cứu mô tả đau dữ dội như tảng đá đè lên ngực), ngã gục và mất ý thức rất nhanh, nếu có kiến thức nghe tim hoặc bắt mạch cảnh mạch bẹn thấy mất mạch. Dấu hiệu của đột tử là bệnh nhân đột ngột ôm ngực, ngã gục và mất ý thức rất nhanh. Hình minh họa Đột quỵ não: Bệnh nhân có thể đau đầu dữ dội hoặc nói khó, méo miệng, yếu hoặc mất cảm giác 1/2 người. Một số trường hợp còn đại tiểu tiện không tự chủ, sau đó ngất, rồi đến mất ý thức, nếu phát hiện sớm kiểm tra tim và mạch vẫn còn đập, muộn có thể thấy mất mạch, ngừng tim. Nguyên nhân Đột tử: Tim ngừng đột ngột 2/3 từ nhồi máu cơ tim do xơ vữa mạch vành, ngoài ra do các bệnh như viêm cơ tim, huyết khối trong tim, shock tim, rung thất, các bất thường điện tim hội chứng Brugada, block nhĩ thất… Đột quỵ não: 2/3 từ nhồi máu não huyết khối gây tắc mạch não do xơ vữa mạch bong ra trôi lên não, gây tắc hoặc huyết khối từ tim văng lên gây tắc mạch. 1/3 từ xuất huyết não do huyết áp tăng đột ngột, làm vỡ túi phình mạch não có từ trước gây xuất huyết. Các triệu chứng chính Đột tử: Diễn biến cực nhanh, đau ngực như mô tả ở trên, khó thở, mất ý thức, mất mạch tim rất nhanh. Đột quỵ: Nhận diện nhanh các triệu chứng điển hình của đột quỵ thông qua nguyên tắc F.A.S.T: – Méo miệng (Face Drooping – F): Méo miệng một bên, biểu hiện rõ nhất khi cười, nhe răng, đôi khi có cảm giác tê một bên mặt. – Yếu liệt tay chân (Arm weakness – A): Một bên tay chân yếu, liệt hay mất cảm giác; tay rơi xuống khi được yêu cầu đưa lên cao, một tay rơi xuống. – Ngôn ngữ bất thường (Speech difficulty – S): Không thể nói, không thể hiểu lời nói. Có thể yêu cầu người bệnh lặp lại một câu nói đơn giản để xem họ có thể lặp lại được hay không. – Thời gian (Timing – T): Thời gian là sự sống còn của não, vì vậy bệnh nhân cần được đưa đến cơ sở y tế sớm nhất. Tri giác có thể bất thường, nhưng kiểm tra tim vẫn còn đập, mạch còn nảy. Cơ quan tổn thương Đột tử: Ảnh hưởng toàn bộ cơ thể do tim ngừng đập, mất cấp máu đến toàn bộ cơ thể. Đột quỵ: Bị ảnh hưởng 1/2 cơ thể như méo miệng một bên, yếu liệt một bên trái hoặc phải cơ thể, đương nhiên kéo dài cũng bị toàn bộ và tử vong. Xử trí Đột tử: Cần lập tức ép tim cấp cứu, song song với gọi 115, hồi sinh tim phổi càng sớm càng tốt. Quá 5′ não thiếu oxy sẽ tổn thương không phục hồi. Đột quỵ: Gọi 115 càng sớm càng tốt, đến cơ sở chuyên khoa có đơn vị đột quỵ cấp cứu trong thời gian “vàng” (< 6 tiếng) càng sớm càng tốt, nếu mất mạch tim mới ép tim trong quá trình đợi 115. Tỷ lệ tử vong Đột tử: Rất cao, lên đến hơn 90%. Đột quỵ: Nếu không cấp cứu kịp cũng có nguy cơ tử vong cao, nhưng thấp hơn đột tử. Phòng ngừa Đột tử: Cần có lối sống lành mạnh, tập thể thao, bỏ thuốc lá, bỏ rượu bia, giảm cân nếu thừa cân, kiểm soát huyết áp, rối loạn lipid máu, tiểu đường, kiểm tra sức khoẻ định kỳ, đặc biệt chú ý vấn đề tim mạch: điện tim, siêu âm tim, chụp mạch vành nếu có nguy cơ cao hoặc tiền sử hẹp mạch vành bằng DSA, CT Photon. Đột quỵ: Kiểm soát lối sống (tương tự phòng ngừa đột tử), kiểm tra sức khoẻ định kỳ, đặc biệt ở người có nguy cơ cao hoặc tiền sử từng đột quỵ: điện tim, siêu âm tim, siêu âm mạch cảnh, chụp mạch não bằng MRI hoặc CT Photon. Lưu ý thêm, cả hai tình trạng đều cần được cấp cứu ngay lập tức. Quy tắc F.A.S.T giúp nhận biết đột quỵ não nhanh chóng. Với đột tử tim, triệu chứng đau ngực và ngất xỉu là dấu hiệu cần hành động ngay. Đặc biệt, không nhầm lẫn với trúng gió (đi cạo gió) hoặc cấp cứu theo kiểu truyền miệng như chích máu đầu ngón tay. https://daibieunhandan.vn/bac-si-chi-dau-hieu-phan-biet-giua-dot-tu-va-dot-quy-10383093.html

Cảnh báo nguy cơ đột quỵ, nhồi máu cơ tim từ loại gia vị tưởng tốt cho sức khỏe

Một nghiên cứu mới được công bố gần đây chỉ ra rằng chất tạo ngọt hay dùng trong thực phẩm, đồ uống “ăn kiêng” có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ và cả nhồi máu cơ tim. Newsweek đưa tin, erythritol là một trong các chất tạo ngọt thường được sử dụng trong các sản phẩm đồ uống, bánh, ngũ cốc được dán nhãn “không đường”, “ít đường”, “ít calo”…; hoặc bán riêng dưới dạng đường ăn kiêng. Trước đây, erythritol được cho là tốt cho sức khỏe bởi không chứa calo, không làm tăng đường huyết như đường thật. Năm 2001, Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đã chấp thuận erythritol như một chất thay thế đường cho người mắc bệnh béo phì, chuyển hóa… Nó cũng tồn tại một ít trong tự nhiên – trong một số loại trái cây và rau củ – cũng như được sản xuất nội sinh trong cơ thể người. Sử dụng erythritol thay thế cho đường có nguy cơ dẫn đến đột quỵ. Ảnh: Getty Images Tuy nhiên, các nhà khoa học tại Đại học Colorado Boulder (Mỹ) mới đây đã phát hiện ra rằng erythritol có thể làm thay đổi tế bào mạch máu não ở người theo những cách có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ. Phát hiện này đã được công bố trên Tạp chí Sinh lý học Ứng dụng , bổ sung thêm bằng chứng ngày càng tăng cho thấy những chất thay thế đường tưởng vô hại này có thể không hoàn toàn an toàn. Nhóm nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ Đại học Colorado đã phân tích dữ liệu của 4.000 người, được theo dõi trong vòng 3 năm. Dự trên kết quả nghiên cứu, họ phát hiện ra cả nam giới lẫn nữ giới có mức erythritol trong cơ thể cao hơn thông qua việc bổ sung dưới dạng chất tạo ngọt có nguy cơ đột quỵ và nhồi máu cơ tim cao hơn đáng kể. Giáo sư Christopher DeSouza, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết họ đã thực hiện một thí nghiệm để tìm kiếm nguyên nhân erythritol trở nên nguy hiểm. Tại phòng thí nghiệm, các nhà khoa học đã xử lý các tế bào trong mạch máu não người trong 3 giờ với lượng erythritol vừa đủ để mô phỏng việc sử dụng một loại đồ uống “ăn kiêng”. Các tế bào biểu hiện ít oxit nitric – một phân tử có tác dụng làm giãn và mở rộng mạch máu – hơn đáng kể; đồng thời nhiều endothelin-1, một loại protein có tác dụng làm co mạch máu. Trong khi đó, khi tiếp xúc với hợp chất hình thành huyết khối (cục máu đông) gọi là thrombin, quá trình sản xuất hợp chất phá huyết khối tự nhiên t-PA của tế bào đã giảm đáng kể. Các tế bào được xử lý bằng erythritol cũng sản sinh ra nhiều loại oxy phản ứng hơn, hay còn gọi là gốc tự do, là sản phẩm phụ của quá trình trao đổi chất có thể làm tế bào lão hóa, tổn thương và gây viêm mô. “Nhìn chung, nếu mạch máu của bạn bị co thắt nhiều hơn và khả năng phá vỡ cục máu đông giảm đi, nguy cơ đột quỵ của bạn sẽ tăng lên. Nghiên cứu của chúng tôi không chỉ chứng minh điều đó mà còn chứng minh erythritol có khả năng làm tăng nguy cơ đột quỵ.”, đồng tác giả Auburn Berry cho hay. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng nghiên cứu của họ được thực hiện trên các tế bào trong đĩa thí nghiệm. Cần có thêm nghiên cứu trên người để xác nhận tác dụng thực tế. Tuy nhiên, giáo sư DeSouza khuyến cáo mọi người nên đọc kỹ nhãn thành phần để biết erythritol hay “rượu đường” và lưu ý đến lượng tiêu thụ, ngay cả trong các sản phẩm được quảng cáo là “không đường”. https://vov.vn/suc-khoe/canh-bao-nguy-co-dot-quy-nhoi-mau-co-tim-tu-loai-gia-vi-tuong-tot-cho-suc-khoe-post1216129.vov

Hình ảnh kinh hoàng: Người phụ nữ bị 70 con ong vò vẽ tấn công khi đang đi tập thể dục

Một phụ nữ 61 tuổi ở TP.HCM bất ngờ bị đàn ong vò vẽ tấn công khi đang đi tập thể dục gần nhà. Với hơn 70 vết đốt trên cơ thể, bà nhanh chóng rơi vào tình trạng sốc phản vệ độ 3, biến chứng suy gan, suy thận, suy hô hấp cấp và tiêu cơ vân, những tình trạng có thể cướp đi tính mạng chỉ trong thời gian ngắn nếu không được can thiệp kịp thời. Ngay sau khi tai nạn xảy ra, người nhà lập tức đưa bệnh nhân đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Nam Sài Gòn. Chỉ trong vòng 40 phút sau khi bị đốt, bà đã được chuyển vào khoa Hồi sức tích cực – Cấp cứu và bắt đầu quá trình điều trị khẩn cấp. Theo báo Dân trí, tại bệnh viện, các bác sĩ đã cho bệnh nhân điều trị bằng các biện pháp chuyên sâu như lọc máu liên tục, thở máy, hỗ trợ đa cơ quan, nâng đỡ huyết động và kiểm soát nhiễm trùng. Sau 10 ngày điều trị tích cực, người bệnh tỉnh táo, được rút ống nội khí quản, chuyển ra phòng thường và đã xuất viện. “May mắn là tôi được đưa đến viện và được điều trị kịp thời. Tôi thực sự biết ơn các bác sĩ, điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Nam Sài Gòn”, người bệnh xúc động chia sẻ. Theo BS.CKI Lại Thanh Tân, khoa Hồi sức tích cực – Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Nam Sài Gòn, ong vò vẽ đốt không chỉ gây đau và sưng tấy đơn thuần như nhiều người lầm tưởng. Nọc độc của chúng chứa nhiều enzyme và độc tố mạnh, có thể gây phản ứng phản vệ, sốc nhiễm độc, tổn thương gan thận, rối loạn đông máu và suy đa cơ quan, đặc biệt ở những người có bệnh nền như tăng huyết áp, tiểu đường, tim mạch, suy giảm miễn dịch… Vết ong đốt khắp người bệnh nhân. Ảnh: Znews. Khi bị đốt nhiều vết cùng lúc, lượng độc tố trong cơ thể có thể đạt ngưỡng nguy hiểm. Với hệ thống cấp cứu – hồi sức hiện đại và đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, ngoài trường hợp trên, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Nam Sài Gòn đã xử trí thành công nhiều trường hợp cấp cứu phức tạp, trong đó có các ca sốc phản vệ, nhiễm độc – nhiễm trùng nặng, suy đa cơ quan… Việc can thiệp kịp thời, đúng phác đồ và theo dõi sát đã giúp người bệnh thoát khỏi nguy kịch và phục hồi tốt. Các bác sĩ khuyến cáo, khi bị ong đốt, cần nhanh chóng di chuyển khỏi khu vực có ong; không gãi, không tự ý nặn vết đốt; loại bỏ nọc nếu còn sót lại; rửa sạch vùng da bị đốt bằng nước muối sinh lý hoặc dưới vòi nước, chườm lạnh. Nếu có biểu hiện khó thở, chóng mặt, buồn nôn hoặc sưng to tại vết đốt, cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời. https://gocnhinphaply.nguoiduatin.vn/hinh-anh-kinh-hoang-nguoi-phu-nu-bi-70-con-ong-vo-ve-tan-cong-khi-dang-di-tap-the-duc-20134.html

Suy thận nặng, 2 quả thận lúc nhúc hàng trăm viên sỏi: Bác sĩ tóm gọn bằng 6 chữ ‘chí mạng’

Khi hình ảnh chụp CT hiện lên màn hình, bác sĩ Mai Văn Lực (Khoa Phẫu thuật Thận – Tiết niệu và Nam học, Bệnh viện E) không giấu nổi sự ngỡ ngàng. Hai quả thận của bệnh nhân nam, 35 tuổi, gần như bị phủ kín bởi hàng trăm viên sỏi nhỏ li ti. “Sỏi chen chúc, dày đặc như những hạt bắp ngô ép chặt nhau”, bác sĩ Lực mô tả sau ca thăm khám ngày 9/7. Bệnh nhân là một kỹ sư công nghệ thông tin sống tại Phú Thọ. Anh có thói quen sinh hoạt thiếu lành mạnh: thường xuyên thức khuya, uống nước ngọt thay vì nước lọc và hầu như không vận động. Hai năm trước, người này đã từng được phát hiện có sỏi ở cả hai thận sau khi xuất hiện các triệu chứng như đau bụng, tiểu buốt. Tuy nhiên, anh chủ quan, không điều trị dứt điểm và tiếp tục duy trì lối sống cũ. Gần đây, khi tình trạng mệt mỏi kéo dài, anh đến bệnh viện kiểm tra và được chẩn đoán suy thận nặng do sỏi tích tụ quá nhiều. Tại cơ sở y tế tuyến dưới, các bác sĩ từ chối phẫu thuật vì tình trạng quá phức tạp, buộc anh phải chuyển đến Bệnh viện E. Theo bác sĩ Lực, chính lối sống “ngồi nhiều, uống ít, thức khuya” đã khiến hai quả thận của người đàn ông còn rất trẻ bị tàn phá nặng nề. “Ngồi nhiều khiến cặn bã khó đào thải, thức khuya phá vỡ chu kỳ lọc máu, còn việc uống nước ngọt thay cho nước lọc khiến nước tiểu đậm đặc – môi trường lý tưởng để sỏi kết tinh”, bác sĩ lý giải. Trong ca can thiệp sau đó, các bác sĩ đã tiến hành tán sỏi và lấy ra hàng trăm viên sỏi nhỏ li ti từ thận bệnh nhân. Trường hợp này được xem là hồi chuông cảnh báo cho giới văn phòng, đặc biệt là những người trẻ tuổi, về hậu quả âm thầm nhưng nguy hiểm của thói quen sinh hoạt thiếu khoa học kéo dài. Bác sĩ phẫu thuật cho bệnh nhân. Một ca bệnh ám ảnh khác Ca bệnh của nam kỹ sư công nghệ thông tin không phải là trường hợp hiếm gặp. Bác sĩ Mai Văn Lực từng tiếp nhận một ca bệnh gây ám ảnh: nữ sinh 18 tuổi với quả thận viêm nặng, niệu quản bị tắc do sỏi, mô thận gần như “hóa đá”. Cô gái nhập viện trong tình trạng đau dữ dội vùng thắt lưng kèm theo buồn nôn. Kết quả kiểm tra cho thấy thận bị tổn thương nghiêm trọng do dòng nước tiểu bị ứ trệ vì sỏi chặn ngang niệu quản. Trước đó, bệnh nhân hoàn toàn khỏe mạnh, không có tiền sử bệnh lý đáng kể. Tuy nhiên, theo lời kể của gia đình, cô có thói quen ăn mì tôm thay cơm suốt thời gian dài, gần như “nghiện” trà sữa, ít uống nước và hầu như không vận động. “Đây là một tổ hợp lối sống rất có hại cho thận, đặc biệt nguy hiểm nếu kéo dài ở người trẻ tuổi”, bác sĩ Lực cảnh báo. Những món ăn nhanh giàu natri, cùng lượng đường cao trong trà sữa kết hợp với việc thiếu nước khiến thận phải hoạt động quá tải để lọc chất thải, tạo điều kiện lý tưởng cho sỏi hình thành và gây tổn thương mô thận. Trường hợp của nữ sinh này là hồi chuông cảnh báo cho giới trẻ đang chạy theo lối sống tiện lợi, nhanh gọn mà bỏ qua sự bền bỉ và âm thầm của thận – cơ quan vốn chỉ “lên tiếng” khi đã tổn thương nghiêm trọng. “Mì tôm chứa hàm lượng muối, chất bảo quản và phụ gia cao tạo nên gánh nặng ‘khổng lồ’ cho thận. Lạm dụng trà sữa cũng có thể khiến thận phải hoạt động liên tục để lọc và đào thải, làm tăng áp lực lên thận do thức uống này chứa lượng đường cao, nhiều chất béo chuyển hóa và hương liệu”, bác sĩ giải thích. Sỏi thận không còn là “bệnh của tuổi trung niên” Ngày càng nhiều người trẻ được chẩn đoán mắc sỏi thận, một căn bệnh vốn được xem là phổ biến ở độ tuổi trung niên. Ghi nhận từ các bệnh viện tuyến đầu cho thấy, số ca phát hiện sỏi thận ở độ tuổi đôi mươi, thậm chí ở trẻ em, đang gia tăng rõ rệt. Đặc biệt đáng lo ngại là nhóm dân văn phòng, game thủ, sinh viên ôn thi – những người thường gắn chặt với bàn ghế, vận động ít, lại lạm dụng thức ăn nhanh và nước ngọt thay nước lọc. Những thói quen này vô tình trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho sỏi thận hình thành. Theo khuyến cáo từ các chuyên gia tiết niệu, cơ thể người trưởng thành cần tối thiểu 2-3 lít nước mỗi ngày để giúp thận hoạt động hiệu quả. Tuy vậy, khảo sát tại các đô thị lớn cho thấy chỉ khoảng 1/3 người trẻ đạt mức tiêu chuẩn này. Việc thiếu nước kéo dài khiến nước tiểu trở nên đặc hơn, từ đó thúc đẩy sự kết tinh khoáng chất và tạo sỏi. Thêm vào đó, thói quen nhịn tiểu, nhất là ở dân văn phòng hoặc học sinh, sinh viên càng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và hình thành sỏi thận do nước tiểu bị ứ đọng trong thời gian dài. Không chỉ lối sống hiện đại gây hại, một loạt yếu tố sinh học và môi trường khác cũng đóng vai trò không nhỏ: từ rối loạn chuyển hóa canxi, thay đổi pH nước tiểu, bất thường cấu trúc đường tiết niệu cho đến yếu tố di truyền. Ở một số địa phương vùng sâu vùng xa, tình trạng

Điều gì xảy ra khi thường xuyên mất ngủ?

Mất ngủ, thiếu ngủ hay chất lượng giấc ngủ kém ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trên cơ thể từ thần kinh, tim mạch đến gan, thận. Mất ngủ là tình trạng không thể ngủ suốt đêm, khó vào giấc, trằn trọc, dễ tỉnh giấc. Mọi người đều có nguy cơ mất ngủ nhưng người lớn tuổi, căng thẳng, sử dụng caffein muộn, mắc bệnh nền có nguy cơ cao hơn. Người bị mất ngủ xảy ra ít nhất ba lần một tuần trong hơn ba tháng có khả năng mất ngủ mạn tính. Nên đi khám để xác định nguyên nhân, điều trị kịp thời, tránh biến chứng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Hệ thần kinh trung ương Giấc ngủ ngon cần thiết để duy trì hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Mất ngủ mạn tính có thể làm gián đoạn cách cơ thể gửi và xử lý thông tin khiến người bệnh thấy khó tập trung chú ý, không thể làm việc và học tập hiệu quả. Các tín hiệu mà cơ thể gửi đi bị chậm so với bình thường, làm giảm khả năng phối hợp và tăng nguy cơ tai nạn. Thiếu ngủ cũng ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tinh thần và trạng thái cảm xúc. Người mất ngủ có xu hướng thiếu kiên nhẫn hơn, dễ thay đổi tâm trạng, ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định và khả năng sáng tạo. Tình trạng ngủ gật vào ban ngày do mất ngủ rất nguy hiểm, nhất là khi đang điều khiển giao thông, làm việc ngoài trời ở khu vực nguy hiểm. Theo thời gian, chứng mất ngủ mạn tính có thể dẫn đến rối loạn tâm trạng như trầm cảm hoặc lo âu. Hệ thống miễn dịch Khi ngủ, hệ thống miễn dịch sản xuất các chất bảo vệ, chống nhiễm trùng như kháng thể và cytokine. Hệ thống sử dụng các chất này để chống lại các tác nhân xâm nhập từ bên ngoài như vi khuẩn và virus. Một số cytokine có khả năng hỗ trợ hệ thống miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn để bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật. Thiếu ngủ ngăn hệ thống miễn dịch xây dựng, từ đó khó khăn khi chống lại các tác nhân xâm nhập, thời gian phục hồi sau khi ốm chậm hơn. Chất lượng giấc ngủ kém còn là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính như bệnh tim, tiểu đường. Hệ hô hấp Mối quan hệ giữa giấc ngủ và hệ hô hấp diễn ra theo cả hai hướng. Rối loạn hô hấp vào ban đêm như ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) có thể làm gián đoạn giấc ngủ, giảm chất lượng. Tình trạng thiếu ngủ, mất ngủ khiến nhiễm trùng đường hô hấp như cảm lạnh thông thường, cúm. Thiếu ngủ cũng có thể làm cho các bệnh về đường hô hấp hiện có như bệnh phổi mạn tính, hen suyễn trầm trọng hơn. Hệ tiêu hóa Giấc ngủ ảnh hưởng đến hoạt động của hai loại hormone leptin và ghrelin, kiểm soát cảm giác đói và no. Nếu không ngủ đủ giấc, não làm giảm leptin và tăng ghrelin kích thích sự thèm ăn. Thiếu ngủ cũng có thể khiến bạn cảm thấy quá mệt mỏi, lười vận động. Theo thời gian, giảm hoạt động thể chất có thể gây tăng cân do không đốt cháy đủ calo và không phát triển khối lượng cơ. Hệ nội tiết Quá trình sản xuất hormone diễn ra trong giấc ngủ. Mất ngủ mạn tính có thể ảnh hưởng đến các hormone testosterone kiểm soát ham muốn tình dục của nam giới. Những hormone này giúp cơ thể xây dựng khối lượng cơ và phục hồi tế bào và mô, bên cạnh các chức năng tăng trưởng khác. Để sản xuất testosterone, nam giới cần ít nhất ba giờ ngủ không bị gián đoạn. Thức giấc giữa đêm có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất hormone này. Anh Chi (Theo WebMD, Healthline) https://vnexpress.net/dieu-gi-xay-ra-khi-thuong-xuyen-mat-ngu-4912450.html

Phẫu thuật tạo hình dị tật ngón tay tại Bệnh Viện Bắc Thăng Long

Trong thời gian qua, Khoa Chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Bắc Thăng Long đã tiếp nhận và điều trị thành công nhiều trường hợp dị tật thừa ngón, dính ngón tay bẩm sinh cũng như các trường hợp dị tật bẩm sinh bất thường hệ vận động khác ở chi thể của trẻ em. Trẻ được điều trị cắt ngón thừa, tạo hình lại hình dáng và chức năng bình thường của bàn tay, chỉ sau 1 lần phẫu thuật. Đây là một dị tật dễ phát hiện, không phải là hiếm gặp, nên những kiến thức về dị tật, phương pháp điều trị, khi nào cần phẫu thuật cắt ngón thừa, tạo hình lại ngón, lựa chọn thời điểm phẫu thuật cần được các phụ huynh bệnh nhi quan tâm và có những hiểu biết cơ bản. Dị tật thừa ngón (polydactyly) còn được biết đến là dị tật bẩm sinh thừa ngón chân hay ngón tay do di truyền hay gặp, đặc trưng bởi việc có các ngón tay hoặc ngón chân phụ, với nhiều kiểu hình bất thường khác nhau. Dị tật này có thể là một phần của một hội chứng dị tật bẩm sinh kèm theo các dị tật khác hoặc là một dị tật xuất hiện đơn độc. Mặc dù dị tật không đe dọa đến tính mạng nhưng lại là dấu hiệu chỉ điểm của một số dị tật nghiêm trọng khác và gây giảm chất lượng cuộc sống. Các ngón thừa thường là một mô nhỏ, có xương mà không có khớp, rất hiếm khi có đủ các chức năng của một ngón tay bình thường. Hầu hết dị tật ngón được gây ra bởi sự khiếm khuyết di truyền trong gene dẫn đến sự khiếm khuyết xảy ra trong sự phát triển chi trước – sau.   Hình ảnh dính ngón tay trước khi mổ Hình ảnh dính ngón tay sau khi mổ PHÂN LOẠI: Được chia làm 3 loại: Trước trục (Preaxial polydactyly): ngón cái sinh đôi Trung tâm (central polydactyly): hiếm gặp, thừa các ngón ở giữa (ngón trỏ, giữa, nhẫn). Sau trục (postaxial polydactyly): ngón út sinh đôi. Trong đó, Type A: là các trường hợp ngón thừa phát triển gần như hoặc như ngón bình thường Type B: ngón thừa phát triển kém có thể chỉ là một nhú nhỏ hoặc thừa ngón nhỏ có cuống ĐIỀU TRỊ: 1. Nguyên tắc chung: cắt bỏ ngón thừa, giữ lại ngón có chức năng tốt hơn và bảo tồn tối đa, hài hòa cả giải phẫu, chức năng và thẩm mỹ. 2. Đánh giá trước mổ: Cần phải chụp X Quang bàn tay, bàn chân và thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng để có thể phân loại ngón thừa, mức độ thiểu sản của mỗi ngón, độ vững của mỗi khớp, chức năng vận động của ngón… để lựa chọn phương pháp phẫu thuật. Đối với từng phân loại sẽ có phương pháp phẫu thuật phù hợp. Thông thường, sẽ định hướng điều trị theo phân loại: Type A: cần phải điều trị phẫu thuật cắt bỏ Type B: cân nhắc giữa phẫu thuật hoặc thắt gốc ngón (bằng chỉ khâu hoặc clip kẹp mạch) làm cho ngón bị hoại tử và sẽ tự rụng sau một thời gian. Và biến chứng hay gặp của những trường hợp này là hay để lại những nhú thịt thừa sau khi ngón thừa rụng gây mất thẩm mỹ đôi khi cần phải phẫu thuật để cắt bỏ. Với đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, chuyên sâu trong phẫu thuật tạo hình chi thể – đặc biệt là xử lý các dị tật bàn tay, chúng tôi áp dụng kỹ thuật hiện đại, an toàn, ít xâm lấn, giúp phục hồi nhanh chóng và đảm bảo thẩm mỹ tối ưu. Hãy để đôi bàn tay nhỏ nhắn của trẻ được tự do khám phá thế giới một cách trọn vẹn nhất! 📍Đặt lịch ngay tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình – Bệnh viện Bắc Thăng Long 📞 Hotline: https://benhvienbacthanglong.org.vn/ 🌟 Thẩm mỹ – An toàn – Tận tâm – Vì tương lai của bé yêu!

48 tuổi đã đột quỵ 3 lần: Tất cả đều do 1 loại đồ uống quen thuộc với nhiều người Việt

Sáng sớm, sau một đêm ngủ dậy, anh Lê Văn Ch. (48 tuổi, trú tại Hà Nội) bất ngờ hoa mắt, chóng mặt, đau đầu dữ dội rồi nôn ói. Người nhà lập tức đưa anh đến trung tâm y tế gần nhà. Nhận thấy dấu hiệu bất thường, các bác sĩ nhanh chóng chuyển anh đến Bệnh viện Thanh Nhàn. Tại Bệnh viện Thanh Nhàn, anh Ch. được chẩn đoán đột quỵ do xuất huyết não. Rất may anh Ch. được chuyển tới viện sớm và được can thiệp kịp thời. Theo anh Ch., đây là lần thứ ba anh phải nhập viện cấp cứu vì đột quỵ và cả ba lần đều có điểm chung: sau khi uống rượu. Lần đột quỵ đầu tiên của anh Ch. xảy ra cách đây 4 năm. Lần đó, anh cũng bị choáng váng, mất cảm giác sau khi uống rượu. Một năm sau đó, anh tiếp tục bị đột quỵ lần hai cũng trong hoàn cảnh tương tự. “Tôi uống rượu hàng ngày, mỗi ngày chừng nửa lít, hôm nào trời nóng thì uống thêm 1 – 2 cốc cho mát”, anh Ch. chia sẻ. Trải qua ba lần cận kề cái chết, anh Ch. bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc từ bỏ thói quen uống rượu: “Tôi sẽ cố gắng cai. Tôi muốn sống lâu hơn vì con cái tôi còn nhỏ”. Hiện, anh Ch. đã ở nhà phụ vợ bán hàng, tạm rời xa công việc nặng nhọc để giữ gìn sức khỏe. Anh Ch. đang được khám lại sau khi được can thiệp đột quỵ (ảnh N.M). Rượu bia làm tăng nguy cơ đột quỵ Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia tiêu thụ rượu bia hàng đầu thế giới. Mỗi người Việt trên 15 tuổi tiêu thụ trung bình 8,3 lít cồn nguyên chất mỗi năm – tương đương khoảng 170 lít bia. Việt Nam hiện đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 3 châu Á về mức tiêu thụ rượu bia bình quân đầu người. Riêng về bia, Việt Nam nằm trong top 10 nước tiêu thụ nhiều nhất toàn cầu với hơn 3,8 triệu kilô lít/năm, chiếm khoảng 2,2% sản lượng thế giới. Bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (cơ sở 3) cho hay, nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa tiêu thụ rượu bia và đột quỵ. Rượu có thể tác động trực tiếp lên não hoặc gián tiếp làm tăng các yếu tố nguy cơ như huyết áp, mỡ máu, đường huyết, tổn thương mạch máu và nội tạng. Đáng lưu ý, đột quỵ không còn là căn bệnh của người cao tuổi. Hiện nay, tỷ lệ người trẻ bị đột quỵ đang tăng lên, chiếm khoảng 10–15% tổng số ca. Một nghiên cứu cho thấy, 18,2% bệnh nhân đột quỵ dưới 45 tuổi có tiền sử uống rượu thường xuyên, bác sĩ Vũ thông tin. Thống kê cũng cho thấy, những người uống trung bình hơn 2 ly rượu mỗi ngày tăng nguy cơ đột quỵ lên tới 34% so với người không uống hoặc uống ít. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, mỗi người nên hạn chế tối đa rượu bia. Cụ thể, nam giới trưởng thành uống không quá 2 đơn vị cồn/ngày; Nữ giới trưởng thành uống không quá 1 đơn vị cồn/ngày. Một đơn vị cồn tương đương 30ml rượu mạnh, 100ml rượu vang hoặc 330ml bia. Để phòng ngừa đột quỵ, bác sĩ Vũ cho biết, bên cạnh kiểm soát bệnh nền như: tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu…, duy trì lối sống lành mạnh là yếu tố quan trọng. Theo đó, mọi người nên: – Ăn nhiều rau xanh, trái cây tươi, giảm muối và chất béo xấu. – Tăng vận động thể chất (ít nhất 30 phút/ngày, 5 ngày/tuần). – Tránh stress, giữ tinh thần ổn định. – Ngưng hút thuốc, hạn chế rượu bia. https://soha.vn/48-tuoi-da-dot-quy-3-lan-tat-ca-deu-do-1-loai-do-uong-quen-thuoc-voi-nhieu-nguoi-viet-198250708182812518.htm

Căn bệnh gây mù lòa không đau, không đỏ, không ngứa

Không đau đớn, không có biểu hiện rõ ràng, bệnh glaucoma âm thầm làm tổn thương dây thần kinh thị giác và có thể dẫn đến mù lòa. Glaucoma (hay còn gọi là cườm nước) là bệnh lý về mắt gây tổn thương dây thần kinh thị giác. Khi dây thần kinh này bị hư hại, thị lực sẽ dần suy giảm và nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời, bệnh có thể dẫn đến mù lòa. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), glaucoma là nguyên nhân gây mù lòa phổ biến thứ hai thế giới, chỉ sau đục thủy tinh thể và là nguyên nhân phổ biến nhất gây mù lòa không hồi phục. Tính đến năm 2020, căn bệnh này đã ảnh hưởng tới gần 80 triệu người 40-80 tuổi. Tổn thương do cườm thường diễn ra âm thầm, không gây đau đớn hay dấu hiệu rõ ràng ban đầu. Nhiều người chỉ phát hiện ra bệnh khi thị lực đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì sao bạn có thể mắc glaucoma? Theo Viện Hàn lâm Nhãn khoa Mỹ (AAO), bên trong mắt luôn sản sinh một lượng dịch trong suốt gọi là dịch thể nước, giúp nuôi dưỡng các mô và duy trì hình dạng mắt. Bình thường, lượng dịch này sẽ được thoát ra ngoài qua một “góc thoát” giữa giác mạc và mống mắt, giúp duy trì áp lực mắt (nhãn áp) ở mức ổn định. Tuy nhiên, nếu hệ thống thoát dịch hoạt động không hiệu quả hoặc bị tắc nghẽn, dịch bị ứ đọng, khiến nhãn áp tăng cao. Áp lực này dồn lên dây thần kinh thị giác, từng sợi thần kinh nhỏ dần sẽ bị phá hủy và người bệnh bắt đầu xuất hiện các điểm mù trong tầm nhìn. Khi phần lớn sợi thần kinh bị tổn thương, thị lực sẽ mất đi vĩnh viễn. Các dạng glaucoma thường gặp Thông thường, người bệnh phải đối mặt với 5 dạng cườm nước chính: Glaucoma góc mở: Là dạng phổ biến nhất. Bệnh tiến triển âm thầm, không gây đau, không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Tầm nhìn bên (ngoại vi) bắt đầu giảm, nhưng người bệnh khó nhận ra cho đến khi bệnh đã khá nặng. Glaucoma góc đóng (góc hẹp): Xảy ra khi mống mắt trượt về phía trước, làm bít tắc góc thoát dịch. Điều này khiến nhãn áp tăng nhanh, gây cơn đau dữ dội, buồn nôn, đỏ mắt, nhìn mờ, thấy quầng sáng quanh đèn. Đây là tình trạng khẩn cấp và cần được xử trí ngay để tránh mù lòa. Glaucoma áp lực bình thường: Nhãn áp không cao nhưng dây thần kinh thị giác vẫn bị tổn thương, có thể do giảm tưới máu hoặc các yếu tố nhạy cảm khác. Glaucoma sắc tố: Các hạt sắc tố bong ra từ mống mắt và tích tụ tại góc thoát dịch, cản trở quá trình dẫn lưu dịch. Người bệnh có thể thấy mờ mắt, nhìn quầng sáng, nhất là sau vận động mạnh. Glaucoma ở trẻ em: Một số trẻ có thể mắc bệnh bẩm sinh hoặc trong những năm đầu đời. Triệu chứng bao gồm mắt mờ đục, chảy nước mắt dù không khóc, nhạy sáng, hay chớp mắt, kèm cận thị tiến triển nhanh. Dấu hiệu nhận biết Nhiều trường hợp glaucoma không biểu hiện bất thường trong thời gian đầu. Tuy nhiên, theo Mayo Clinic, bạn cần chú ý nếu xuất hiện các dấu hiệu sau: Thị lực mờ dần, đặc biệt ở vùng nhìn bên Nhìn thấy quầng sáng hoặc vòng màu quanh ánh đèn Đau nhức mắt, đau đầu kéo dài Mắt đỏ, cảm giác nặng hoặc căng trong mắt Buồn nôn, nôn (trong cơn cấp) Nếu các triệu chứng xuất hiện đột ngột, đặc biệt là đau mắt dữ dội kèm nhìn mờ, cần đến bệnh viện ngay vì đây có thể là dấu hiệu của cơn glaucoma cấp tính, cần được cấp cứu kịp thời để cứu thị lực. Những ai dễ mắc glaucoma? Nguy cơ mắc cườm nước tăng lên theo tuổi, đặc biệt ở những người từ 40 tuổi trở lên. Nếu trong gia đình từng có người bị cườm mắt, bạn cũng dễ bị ảnh hưởng do yếu tố di truyền. Ngoài ra, những người mắc các tật khúc xạ nặng như cận thị hoặc viễn thị, từng chấn thương mắt hay đã trải qua phẫu thuật mắt cũng thuộc nhóm nguy cơ. Người làm dụng thuốc nhỏ mắt chứa corticoid cũng có nguy cơ bị cườm mắt. Ảnh: Adobe Stock. Cuốn sách “Siêu tổ chức con người” của tác giả Rodney Dietert đem tới cho bạn đọc những kiến thức hữu ích để bảo vệ hàng rào đề kháng tự nhiên của cơ thể và xây dựng lối sống lành mạnh. Việc sử dụng thuốc corticoid kéo dài, đặc biệt là dạng nhỏ mắt, có thể ảnh hưởng đến áp lực nội nhãn và góp phần làm tăng khả năng mắc bệnh. Glaucoma cũng dễ xuất hiện hơn ở những người có bệnh lý mạn tính như tiểu đường, cao huyết áp, đau nửa đầu. Glaucoma có chữa khỏi không? Tổn thương do cườm nước gây ra không thể hồi phục, nhưng nếu phát hiện sớm và điều trị đúng cách, bệnh có thể kiểm soát được và làm chậm quá trình mất thị lực. Các phương pháp điều trị gồm dùng thuốc nhỏ mắt, laser và phẫu thuật. Dù việc điều trị có thể cải thiện được tình trạng bệnh, tuy nhiên, cách tốt nhất vẫn là ngăn ngừa nguy cơ mắc bệnh ngay từ đầu: Khám mắt định kỳ theo độ tuổi hoặc khuyến cáo riêng nếu bạn thuộc nhóm nguy cơ cao Hiểu về tiền sử bệnh lý trong gia đình, đặc biệt nếu người thân từng bị cườm nước Bảo vệ mắt khi chơi thể thao hoặc làm việc trong môi trường nguy hiểm

Bệnh sốt vàng và những điều cần lưu ý

Bệnh sốt vàng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus, gây bệnh cho người và động vật linh trưởng, bệnh chủ yếu lây truyền qua muỗi Aedes (muỗi vằn), phổ biến ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ và Châu Phi (bệnh chưa từng gặp ở Châu Á và các châu lục khác, trừ một số ca nghi ngờ do du nhập từ vùng lưu hành). Bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như suy đa tạng và tử vong. Tuy nhiên có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc xin và các biện pháp phòng muỗi đốt. Vắc xin phòng bệnh sốt vàng. Người bị mắc bệnh thường biểu hiện sốt cao đột ngột (39-40°C), ớn lạnh, nhức đầu, đau cơ, mạch nhanh ban đầu sau đó có thể chậm lại. Khoảng 15% người bệnh có diễn biến nặng với triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc rầm rộ và biểu hiện rối loạn chức năng nhiều cơ quan, người bệnh có thể xuất hiện vàng da, vàng mắt, đau vùng thượng vị, nôn trớ, thiểu niệu, chấm xuất huyết, lú lẫn, hôn mê. Có thể có các biến chứng nặng như suy đa tạng, trụy tim mạch, sốc nhiễm khuẩn, tử vong. Bệnh sốt vàng hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị hỗ trợ và giảm triệu chứng. Người bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối, hạ sốt, bù dịch, điều chỉnh rối loạn điện giải, đảm bảo dinh dưỡng. Hạn chế sử dụng các thuốc chuyển hóa qua gan và gây độc cho gan. Các trường hợp nặng cần được chăm sóc tích cực tại các cơ sở y tế chuyên sâu. Tiêm phòng vắc xin sốt vàng hiện nay là biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ bản thân và cộng đồng. Sốt vàng là bệnh lưu hành ở khu vực Châu Phi, Nam Mỹ, do vậy cần tiêm phòng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa khi đến các vùng có nguy cơ cao. Những đối tượng cần chủ động tiêm phòng gồm: người sống, người làm việc hay khách du lịch đến khu vực có lưu hành bệnh. Các quốc gia có bệnh sốt vàng lưu hành thường có yêu cầu khách đến thăm quan, làm việc cần được tiêm tối thiểu 10 ngày trước khi nhập cảnh. Người dân có thể tiêm vắc xin tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh/thành phố hoặc một số điểm tiêm chủng dịch vụ. Khi đến các quốc gia có dịch bệnh sốt vàng lưu hành, chúng ta cần đề phòng muỗi đốt bằng cách mặc quần áo dài tay, sử dụng kem chống muỗi, lưới chống muỗi, thuốc diệt muỗi, tránh hoạt động ngoài trời vào thời điểm muỗi hoạt động mạnh. https://soyte.hanoi.gov.vn/phong-chong-dich-benh/-/asset_publisher/4IVkx5Jltnbg/content/benh-sot-vang-va-nhung-ieu-can-luu-y

Mỹ phê duyệt thuốc ‘tên lửa dẫn đường’ điều trị ung thư phổi

Mỹ phê duyệt thuốc Datroway thuộc nhóm liên hợp kháng thể còn gọi “tên lửa dẫn đường”, do AstraZeneca và Daiichi Sankyo hợp tác phát triển điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Quyết định được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đưa ra ngày 23/6. Datroway là liệu pháp đầu tiên tại Mỹ được chấp thuận sử dụng cho những bệnh nhân ung thư phổi trước đó điều trị bằng các liệu pháp khác nhưng không hiệu quả. Động thái của FDA mở rộng cơ hội tiếp cận điều trị ung thư cho những người bị ung thư phổi. Datroway thuộc nhóm thuốc liên hợp kháng thể (antibody-drug conjugates), thường được gọi là “tên lửa dẫn đường” do có khả năng tấn công chính xác vào tế bào ung thư trong khi giữ nguyên các tế bào khỏe mạnh. Cách tiếp cận này khác biệt với hóa trị truyền thống. Thuốc nhắm vào protein TROP2 có trên bề mặt tế bào khối u, vốn xuất hiện trong nhiều loại ung thư. Trước đó, Datroway đã được phê duyệt để điều trị một dạng ung thư vú. “Việc phê duyệt lần đầu cho Datroway trong điều trị ung thư phổi cung cấp một lựa chọn rất cần thiết cho những bệnh nhân ung thư phổi đột biến EGFR giai đoạn tiến triển, những người đã kháng lại với các phương pháp điều trị trước đó, bất kể đột biến gốc là gì”, Dave Fredrickson, giám đốc điều hành nhóm nghiên cứu ung thư của AstraZeneca, cho biết. Minh họa khối u ung thư phát triển trong phổi trái bệnh nhân. Ảnh: Cure AstraZeneca và Daiichi Sankyo bắt đầu hợp tác từ nhiều năm trước trong việc phát triển các liệu pháp điều trị ung thư. Sản phẩm đầu tiên họ đồng phát triển là Enhertu. Đến năm 2020, hai bên ký thỏa thuận hợp tác để phát triển và thương mại hóa Datroway, với giá trị thỏa thuận lên tới 6 tỷ USD. Sau khi Datroway được phê duyệt tại Mỹ, AstraZeneca cho biết sẽ chi 45 triệu USD cho Daiichi như một cột mốc quan trọng trong thỏa thuận hợp tác giữa hai bên. Ung thư phổi hiện là một trong những bệnh ung thư phổ biến và gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm thế giới ghi nhận khoảng 2,2 triệu ca ung thư phổi mới và gần 1,8 triệu ca tử vong, chiếm 18% số ca tử vong do ung thư. Tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn muộn chỉ đạt khoảng 10-20%. Ung thư phổi được chia thành hai dạng chính: ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC, chiếm khoảng 85%) và tế bào nhỏ (SCLC). NSCLC thường liên quan đến các đột biến phân tử như EGFR, ALK, ROS1… Datroway nhắm vào protein TROP2, mở ra hướng tiếp cận mới trong điều trị những trường hợp kháng thuốc với liệu trị trước. Thục Linh (Theo Reuters) https://vnexpress.net/my-phe-duyet-thuoc-ten-lua-dan-duong-dieu-tri-ung-thu-phoi-4905753.html

Hiểu sai về bệnh béo phì có nguy cơ gây mắc nhiều bệnh nguy hiểm

Theo nghiên cứu ACTION-Vietnam, hơn 60% người béo phì cho rằng việc kiểm soát cân nặng là trách nhiệm của riêng họ và không nhận thức đúng về bệnh lý mạn tính này. Họ thường ngần ngại thảo luận với bác sĩ về cân nặng vì lo ngại bị phán xét. Những người béo phì, đặc biệt khi bệnh chưa gây ra biến chứng sức khỏe nghiêm trọng, thường trì hoãn tìm kiếm sự can thiệp y tế và chỉ bắt đầu điều trị khi các vấn đề sức khỏe phát sinh, như tiểu đường, huyết áp cao hay bệnh tim mạch. Điều này làm tăng rủi ro và khiến việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Bác sĩ Georgia Rigas cho biết bệnh béo phì ở nhiều độ tuổi khác nhau. Bên cạnh đó, sự thiếu hiểu biết về béo phì cũng khiến nhiều người trong xã hội có cái nhìn sai lệch. Bác sĩ Georgia Rigas, chuyên gia hàng đầu về điều trị béo phì với 25 năm kinh nghiệm lâm sàng đến từ Úc, cho biết: “Béo phì không phải là một vấn đề của thiếu ý chí hay lười biếng. Đây là một bệnh mạn tính có sự tác động của nhiều yếu tố như di truyền, môi trường, tâm lý và thói quen sống. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận về béo phì và nhìn nhận nó như một bệnh lý cần được điều trị từ sớm”. Bác sĩ Rigas cũng nhấn mạnh: “Béo phì không phải là một vấn đề đơn giản về cân nặng mà là một bệnh lý mạn tính ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể. Chúng ta cần thay đổi cách tiếp cận từ việc chỉ chú trọng vào giảm cân sang việc cải thiện sức khỏe tổng thể của bệnh nhân, giảm thiểu các nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng như bệnh tim mạch, tiểu đường và ung thư”. Béo phì hiện đang trở thành một vấn đề sức khỏe toàn cầu và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Với tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, việc nâng cao nhận thức cộng đồng và thay đổi thói quen sống là yếu tố quyết định trong việc phòng ngừa và điều trị bệnh béo phì hiệu quả. Tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Phẫu thuật Tiêu hóa, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, đồng tác giả nghiên cứu ACTION-Vietnam, đã nhấn mạnh việc nâng cao nhận thức là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong việc ngăn ngừa béo phì. GS.TS. Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ tình trạng béo phì tại Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn cho biết: “Chúng ta cần phải giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của việc duy trì một lối sống lành mạnh ngay từ khi còn nhỏ. Việc này không chỉ giúp ngăn ngừa béo phì mà còn giảm thiểu các nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính như tiểu đường, bệnh tim mạch và ung thư. Trong suốt quá trình điều trị béo phì, người bệnh cần nhận thức rằng đây là một vấn đề sức khỏe dài hạn và họ không đơn độc trong hành trình này. Đặc biệt, việc thay đổi lối sống là yếu tố cốt lõi giúp đạt được kết quả bền vững”. Để làm được điều này, một chiến lược giáo dục mạnh mẽ là cần thiết. Các chương trình truyền thông nên tập trung vào việc nâng cao nhận thức về béo phì như một bệnh lý mạn tính, thay vì chỉ là vấn đề thẩm mỹ hay thiếu ý chí. Theo bác sĩ Georgia Rigas, điều trị béo phì không chỉ là giảm cân mà là cải thiện sức khỏe tổng thể. Bà nhấn mạnh rằng việc thay đổi chế độ ăn uống và tăng cường vận động thể chất là hai yếu tố cơ bản giúp phòng ngừa và điều trị béo phì. “Một chế độ ăn uống lành mạnh với tỷ lệ phù hợp của các nhóm thực phẩm chính, kết hợp với việc tập thể dục đều đặn sẽ giúp duy trì cân nặng ổn định và ngăn ngừa các bệnh lý mạn tính”, bà Rigas chia sẻ. Ngoài ra, việc khuyến khích người dân tham gia các hoạt động thể chất như đi bộ, chạy bộ, yoga hay thể dục nhịp điệu mỗi ngày ít nhất 30 phút sẽ giúp cải thiện sức khỏe và hỗ trợ quá trình giảm cân. Điều quan trọng là các hoạt động này phải được duy trì thường xuyên và trở thành một phần của thói quen sống hàng ngày. https://baotintuc.vn/y-te/hieu-sai-ve-benh-beo-phi-co-nguy-co-gay-mac-nhieu-benh-nguy-hiem-20250621171135535.htm

Đặt Lịch Khám

    Đặt Lịch Khám